Post by cuong on Jan 30, 2015 2:52:40 GMT
Phương pháp chữa, định bệnh trong y khoa Ðông Phương
B.S. Đặng Trần Hào
Y khoa Ðông phương định bệnh theo hai phương pháp chính sau:
1. Tứ Chẩn: Vọng (nhìn) - Văn ( nghe) - Vấn (hỏi) - Thiết (mạch).
2. Bát Cương: Âm Dương - Biểu Lý - Hàn Nhiệt - Hư Thực.
Kỳ này chúng ta cùng đi tìm hiểu Tứ Chẩn: Vọng - Văn - Vấn - Thiết:
Người thầy thuốc phải biết quan sát và phân biệt về hình thái, thần, sắc, mặt, mũi, môi, lưỡi của người bệnh, để biết được bệnh tình từ bên trong phản ảnh ra bên ngoài.
Vọng (nhìn):
Người thầy thuốc phải trông diện mạo, hình dáng, ngắm diện mạo toàn thân, nhìn khí sắc, tinh thần, cách đứng, ngồi, nghiêng ngả để ngầm đoán bệnh của con người ấy.
Cách nhìn người bệnh chỉ nên vừa nói chuyện, vừa nhìn thoáng qua, chứ không nên nhìn trừng trừng vào mặt người ta, trừ khi bệnh quá nặng thì phải xem kỹ.
-Nhìn thần: xác định thần còn tinh nhanh và tỉnh táo không? Hay tinh thần lừ đừ, mệt mỏi, mắt không còn thần, nói năng chậm chạp, để lượng định được bệnh nặng hay nhẹ.
-Nhìn sắc: sắc mặt còn tươi sáng hay đen tối và có thể dựa vào những mầu sắc, đỏ-vàng-trắng-đen-xanh, để biết nguyên nhân nào gây ra. Thí dụ: mặt vàng tươi là do thấp nhiệt, mặt hơi vàng là do tỳ hư, mặt trắng bạch thường do thiếu máu...
-Nhìn hình thái: cơ nhục yếu không đứng dậy được thường do tỳ hư, chân tay co quắp do gan hư.
-Xem mắt, môi, da: môi trắng nhợt do thiếu máu, mắt quầng đen do thận âm suy; da phù thũng ấn vào vết lõm còn do thủy thấp, ấn vào nổi lên ngay là do khí trệ.
-Nhìn lưỡi: mầu sắc, hình dáng và rêu lưỡi dầy hay mỏng: Thí dụ: lưỡi thon gọn, không có rêu, sắc đỏ và khô thường do thận âm suy gây ra. Ðầu lưỡi đỏ do tâm hỏa vượng. Rêu lưỡi trắng thuộc về hàn, vàng thuộc về nhiệt. Tính chất của rêu lưỡi dầy hay mỏng cho biết bệnh nặng hay nhẹ, bệnh cấp tính hay mãn tính.
Văn (nghe):
Xem xét bệnh bằng cách lấy tai nghe, thêm vào đó lấy mũi, lấy mắt mà “nghe,” lấy tinh thần ý tứ mà “nghe.” Nghe là thầy thuốc nghe tiếng nói, nghe hơi thở, nghe cách ăn uống, nằm ngồi của người bệnh để biết bệnh mà trị.
-Nghe âm thanh: tiếng nói không ra hơi do hư chứng, nói sang sảng thực chứng, nói lảm nhảm một mình do tâm thận hư.
-Tiếng ho: ho khan từng cơn thường do phế âm và gan âm suy. Ho có tiếng thở khò khè và thường về đêm nhiều hơn ngày thường do thận, phế âm suy do thận không nạp khí được. Ho hắt xì hơi và sổ mũi là do cảm phong hàn.
-Ngửi mùi: mũi, mồm, đờm, phân, nước tiểu có thể giúp người thầy thuốc phân biệt được tình trạng hư thực, hàn nhiệt. Thí dụ: nước tiểu đục, khai do thấp nhiệt.
Vấn (hỏi):
Xem xét bệnh bằng cách lấy lời mà hỏi bệnh nhân thêm để biết bệnh mà trị. Vấn chẩn giữ phần bàng quan về bệnh tật rất là cần thiết. Vì những điều như hoàn cảnh, nghề nghiệp, tình tiết có ảnh hưởng tới bệnh tật rất nhiều, mà những điều đó lại không ở trong phạm vi Vọng, Văn và Thiết để xem mà biết được, nên cần phải Vấn (hỏi).
Nếu không Vấn (hỏi) mà chỉ Vọng, Văn và Thiết, dám chắc rằng dù thầy thuốc nào có tài giỏi biết mấy, cũng không thể biết cho hết được tất cả đại thể và tiểu tiết về bệnh nhân trong khi sơ ngộ vài giờ.
Nếu người ta bảo rằng: “Ông thầy thuốc nọ, ông thầy thuốc kia khi xem mạch mà cứ hỏi bệnh này, điều nọ của mình” rồi cho ông thầy thuốc ấy là “không biết xem mạch, không hay” xét ra lời nói đó chỉ là bâng quơ, nhất thời mà thôi.
Nói cho đúng Vấn chẩn quả là một gạch nối cần thiết giữa người bệnh và thầy thuốc, để thông suốt và sáng tỏ hơn về những bí ẩn của tật bệnh. Nghĩa là hai bên cần phải thành thật trong khi vấn đáp để mổ xẻ mà định bệnh, lập phương cho đúng, mới mong có hiệu quả.
-Hỏi bệnh nhân hay người nhà về cái gì làm cho bệnh nhân cảm thấy khó chịu nhất và đã trải qua bao lâu, làm nghề gì? Có gì xẩy ra bất ngờ làm cho buồn phiền lo âu quá đáng không? Hoàn cảnh sống ra sao?
-Hỏi về hàn nhiệt: hỏi bệnh nhân có hay sợ lạnh, hay sợ nóng. Chân lạnh hay cả chân lẫn tay đều lạnh. Trên nóng dưới lạnh, hay trong lạnh ngoài nóng.
-Hỏi về mồ hôi: sốt có mồ hôi hay không có mồ hôi. Ngủ ra mồ hôi trộm thường do âm suy hay âm và dương đều suy, ra mô hôi về đêm do âm suy.
-Hỏi đau đầu, cổ, vai, ngực, giang sườn, lưng, tay chân: nhức đầu ở trước trán do bao tử gây ra, hai bên do gan, đỉnh đầu do thận; đau cổ, vai kèm theo chóng mặt thường là thiếu máu, hay trời lạnh không giữ cổ cho ấm gây máu không thông mà đau nhức. Ðau giang sườn thường do gan. Ðau chấn thủy thường do bao tử, thêm đầy hơi thường do gan gây ra. Ðau thắt lưng do thận. Ðau và yếu đầu gối do thận yếu mà sinh ra.
-Hỏi về khẩu vị: Khát và uống nhiều nước lạnh thực chứng, uống ít nước là hư chứng. Ăn nhiều mau đói là thực hỏa. Ðói mà không ăn là do vị hư. Miệng thở ra hôi thường do vị hỏa, cộng thêm với gan khí phạm tì, đưa vị khí nghịch lên mà gây ra. Miệng đắng thuộc nhiệt, miệng chua hôi thường do trường vi tích nhiệt, miệng nhạt do đàm trọc hư chứng, miệng mặn do thận hư.
-Hỏi về đại và tiểu tiện: đại tiện táo, đi khó, lượng phân ít, bệnh cấp tính thường thực nhiệt, đại tiện lỏng, ít hôi thường do hư hàn, đại tiện chảy lúc sáng sớm thường do tỳ thận dương hư, đại tiện ra máu mũi, mót rặn bệnh lỵ do thấp nhiệt ở đại tràng.
-Tiểu tiện: tiểu tiện ít, mầu vàng, nóng do thực nhiệt, tiểu tiện nhiều, trong là thuộc hư hàn, đi tiểu luôn,và ra ít là do thấp nhiệt ở bàng quang. Người già đi tiểu luôn và thường buồn tiểu là do thận khí suy.
-Hỏi về kinh nguyệt: hỏi về chu kỳ kinh nguyệt:trước kỳ kinh nguyệt; sau kỳ kinh nguyệt; kinh nguyệt có kéo dài hay không? hỏi về tuổi tác.
Thiết (chẩn mạch):
Thiết chẩn là căn bản, là chủ chốt, là một việc cần thiết nắm phần quan trọng trong việc xét mạch để biết bệnh ở nội thể. Thiết chẩn là đường lối cao rộng, ý nghĩa sâu xa và huyền diệu, đi vào thiết chẩn, khác nào như lần mò vào thăm thẳm, mịt mù, tìm hiểu trong vô hình mà đoán biết ra được bệnh trạng hữu hình. Thật khó vô cùng!
Chẩn mạch để phân biệt: Phù-Trầm- Trì-Sác và Âm Dương-Biểu Lý-Hàn Nhiệt-Hư Thực. Ngoài ra còn nhiều loại mạch khác mà muốn đi sâu vào mạch lý chúng ta cần phải qua những khóa học căn bản và thực hành mới mong hiểu được mạch lý một cách tường tận. Người thầy thuốc không những phải hiểu mạch lý mà còn phải giữa tâm cho thanh tịnh và trầm tĩnh khi bắt mạch, mới mong bắt được mạch và định bệnh được chính xác.
Thí dụ: Người bị thận âm suy mạch thường phú, sác và vi, nhưng muốn bắt được mạch vi phải có kinh nghiệm và ngón tay phải điêu luyện mới hy vọng bắt được mạch này, vì chỉ ấn mạnh hay nhẹ chút đỉnh là mạch đã mất rồi! Vì vậy cần phải có người thầy kinh nghiệm chỉ dạy và thực hành cho tới bao giờ bắt được, thì mới hiểu được mạch này. Ngoài ra còn nhiều mạch cần phải kinh nghiệm và yêu thích nghề nghiệp mới mong thấy và hiểu được. Vì vậy thầy thuốc thì nhiều mà mấy ai nắm vững hết được.
Hôm nay chúng ta chỉ tìm hiểu sơ lược về Phù-Trầm-Trì-Sác:
Mạch trong con người là mạch khí-huyết lưu hành ngày đêm trong cơ thể. Tùy theo lớn nhỏ, không nơi đâu là không có.
Người xưa định nghĩa: “Mạch là chi phái của khí-huyết lưu hành và có mạch thì sống lâu nhiều năm tháng.”
-Mạch phù: phù là nổi. Vật nhẹ thì nổi phông lên trên như gió thổi phồng. Mạch phù nổi lên trên làn da, trên thịt (nơi da thịt giáp nhau) để nhẹ ngón tay xem đã thấy sức mạnh đi đẫy đà (hữu lực), mà ấn ngón tay xuống thì không thấy gì, dù có thấy cũng rất yếu ớt. Mạch phù chủ bệnh ngoại cảm, phong: phong hàn, phong nhiệt,phong thấp, phong độc.
-Mạch trầm: mạch trầm chìm xuống, đi dưới thịt, trên xương, ấn nặng ngón tay xuống thì sức mạnh đi mạnh chắc, mà nâng ngón tay lên thì sức mạnh đi yếu, hầu như không có lực.
Mạch trầm chủ bệnh về khí: khí thống, khí uất, khí nhiệt, khí hàn, khí tích, khí nghịch.
-Mạch trì: là chậm. Sức mạnh đi chậm chạp. Cứ một hơi thở của thầy thuốc, mạch của bệnh nhân đi dưới ngón tay thầy thuốc 3 lần.
Mạch trì chủ về hàn: bởi dương khí suy, chân hỏa yếu kém, làm trong và ngoài đều cảm thấy hàn.
-Mạch sác: là luôn luôn đi mau lẹ. Cứ một hơi thở của thầy thuốc, mạch của bệnh nhân đi dưới tay của thầy thuốc 6 lần.
Mạch sác chủ về bệnh nhiệt, nhẹ thì toàn thân nóng nẩy. nặng thì tâm buồn phiền phát cuồng loạn.
Tuần tới chúng ta sẽ tìm hiểu thêm về Bát Cương.