|
Post by cuong on Jan 30, 2015 20:54:35 GMT
MẠCH LÝ Y HỌC CỔ TRUYỀN
C- CÁC BỘ VỊ ĐỂ CHẨN MẠCHHiện nay, đa số các thầy thuốc chọn cách xem mạch theo học thuyết của Lý Đông Viên như sau: TAY PHẢI, TAY TRÁI (THỐN) Phế Đại - Trường, Tâm - Tiểu Trường
(QUAN) Tỳ - Vị, Can - Đởm
(XÍCH) Mệnh Môn - Tam Tiêu, Thận - Bàng Quang Sự Liên Hệ Giữa Các Bộ Vị MạchDựa theo đặc tính sinh khắc của Ngũ Hành, áp dụng vào cách phân định bộ vị của mạch và tạng phủ theo Lý Đông Viên, ta có: + Tương Sinh: Thận Thủy (bộ xích tay trái) sinh Can Mộc (Quan), Mộc sinh Hỏa (Thốn) và Hỏa (Mệnh Môn - xích bên phải) sinh Tỳ Thổ (Quan), Tỳ Thổ sinh Phế Kim (Thốn). TAY TRÁI, TAY PHẢI (THỐN) Tâm Hỏa, Phế Kim (QUAN) Can Mộc, Tỳ Thổ (XÍCH) Thận Thủy, Mệnh Môn (Hỏa) + Tương Khắc: Nhìn vào hàng ngang, giữa 2 tay phải và trái, và giữa các bộ vị cùng tên, ta thấy có sự tương khắc: Tâm Hỏa khắc Phế Kim, Can Mộc khắc Tỳ Thổ, Thận Thủy khắc Mệnh Môn Hỏa. TAY TRÁI TAY PHẢI (THỐN) Tâm Hỏa, Phế Kim (QUAN) Can Mộc, Tỳ Thổ (XÍCH) Thận Thủy, Mệnh Môn HỏaNếu nhìn chéo sẽ thấy: Phế Kim khắc Can Mộc, Tỳ Thổ khắc Thận Thủy và như vậy sẽ có 1 vòng liên hợp tương khắc như sau: Tâm Hỏa khắc Phế Kim, Phế Kim khắc Can Mộc, Can Mộc khắc Tỳ Thổ, Tỳ Thổ khắc Thận Thủy, Thận Thủy khắc Mệnh Môn Hỏa, và vòng tương khắc cứ như vậy mà tiếp diễn. Có lẽ vì vậy mà hình thái định vị này đươc nhiều người chú ý và chấp nhận.
|
|
|
Post by cuong on Jan 30, 2015 21:05:10 GMT
MẠCH HỌC
MẠCH LÝ ĐÔNG Y- Đại cương - Cơ chế và các bộ vị Mạch - Cần biết khi xem mạch - Cách phân biệt mạch - Phân loại mạch THẤT BIỂU MẠCH- Mạch Phù (nổi) - Mạch Khổng ( Rổng) - Mạch Hoạt ( tròn trơn) - Mạch Thực ( có lực) - Mạch Huyền ( dây cung) - Mạch Khẩn ( Vặn vẹo) - Mạch Hồng ( sóng vổ) BÁT LÝ MẠCH- Mạch Trầm ( chìm) - Mạch Vi ( nhỏ) - Mạch Hoản ( Thông thả) - Mạch Sắc ( bén) - Mạch Trì ( chậm) - Mạch Phục ( núp sâu) - Mạch Nhu ( mềm mại) - Mạch Nhược ( yếu ớt) CỬU ĐẠO MẠCH- Mạch Hư ( không lực) - Mạch Xúc ( bức bách) - Mạch Kết ( tụ lại) - Mạch Lao ( Không bền) - Mạch Đại ( thay đổi) - Mạch Động ( lúc lắc) - Mạch Tế ( nhỏ yếu) - Mạch Sác ( nhanh) - Mạch Cách ( mặt trống) TAM TƯỢNG MẠCH- Mạch Đại ( Đợi) (to lớn) - Mạch trường ( dài) - Mạch Đoản ( ngắn) THẬP QUÁI MẠCH- Đạn thạch - Giải Sách - Hà Du - Ngư Tường - Ốc Lậu - Phủ Phí - Trước Tác - Chuyễn Đậu - Ma xúc - Yển đao PHỤ NHÂN MẠCH- Thời kỳ kinh nguyệt - Thời kỳ thụ thai - Thời kỳ sản hậu
CÁCH PHÂN BIỆT MẠCH
MẠCH ĐOẢN VÀ ĐỘNG· Đoản là mạch âm, không đầu, không đuôi, mạch đến trì trệ. Động là mạch dương, không đầu, không đuôi, mạch đến nhanh và trơn. MẠCH HỒNG VÀ THỰC· Mạch Hồng tựa như nước lụt, to, tràn đầy đầu ngón tay, nặng tay hơi giảm. · Mạch Thực thì chắc nịch, ứng dưới tay có lực, nặng nhẹ tay đều vẫn thấy như vậy. MẠCH HUYỀN VÀ TRƯỜNG· Huyền giống như dây cung, căng thẳng, cứng đều mà không dội vào tay. · Mạch Trường như cây sào, vượt qua cả vị trí gốc mà lại không dội vào tay. MẠCH NHU VÀ NHƯỢC· Mạch Nhu nhỏ mềm mà Phù. · Mạch Nhược nhỏ mềm mà Trầm. MẠCH LAO VÀ CÁCH· Mạch Lao có dạng Trầm Đại mà Huyền, chỉ ở đúng vị trí. · Mạch Cách có dạng Hư, Đại mà Phù, Huyền, trong hư ngoài cấp. MẠCH PHÙ VỚI MẠCH HƯ VÀ KHÂU· Mạch Phù, nhẹ tay thì mạnh, nặng tay thì yếu. · Mạch Hư to mà vô lực, nhẹ hoặc nặng tay đều như nhau. · Mạch Khâu nhẹ hoặc nặng tay đều thấy rỗng ở giữa. MẠCH SÁC VÀ KHẨN, HOẠT· Mạch Sác đi lại gấp rút, 1 hơi thở 6 chí. · Mạch Khẩn lan ra 2 bên ngón tay, giống như kéo dây thừng. · Mạch Hoạt đi lại lưu lợi, trơn tru như con tính chạy trên bàn. MẠCH TRẦM VỚI PHỤC· Mạch Trầm đặt nhẹ tay hình như không thấy, ấn nặng mới thấy. · Mạch Phục ấn nặng tay cũng không thấy, đẩy tìm tới gân mới thấy. MẠCH TRÌ VỚI HOÃN· Mạch Trì 1 hơi thở đi 3 chí, hình nhỏ mà yếu. · Mạch Hoãn 1 hơi thở đi 4 chí, hình to mà hòa hoãn. MẠCH VI VỚI TẾ· Mạch Vi không bằng Tế, như có, như không, giống như sợi tơ nhện. · Mạch Tế hơi lớn hơn mạch Vi, ứng dưới tay rất nhỏ, như sợi chỉ mành. MẠCH XÚC VỚI MẠCH KẾT, ĐỢI, SẮC· Mạch Xúc gấp rút, trong Sác thỉnh thoảng lại ngừng. · Mạch Kết thì trong Trì thỉnh thoảng lại ngừng. · Mạch Đợi thì Động mà khi ngừng rồi thì khó trở lại, có số ngừng nghỉ nhất định, không phải ngẫu nhiên. · Mạch Sắc thì Trì, Đoản, sít trệ, mạch đến rít như muốn ngừng 3 hoặc 5 chí (trong 1 hơi thở), không đều. MẠCH HOẠT VÀ MẠCH SẮC.Theo sự thông hoặc trệ của mạch. · Mạch Hoạt là huyết nhiều, khí ít. Huyết nhiều cho nên mạch lưu lợi, trơn tròn. · Sắc là khí nhiều, huyết ít, vì vậy sít mà tán. MẠCH HỒNG VÀ MẠCH VITheo sự thịnh suy của mạch. · Mạch Hồng: huyết nhiệt mà thịnh, khí theo đó mà bùng lên tràn đầy ở đầu tay, sức mạnh vọt mạnh, vì vậy Hồng là thịnh. · Mạch Vi: khí hư mà hàn, huyết theo đó mà sít lại, ứng với mạch nhỏ, muốn đứt, vì vậy Vi là suy. MẠCH KẾT VÀ MẠCH XÚCTheo âm hoặc dương của mạch. · Dương cực thì Xúc, mạch nhanh, gấp mà có lúc ngừng. · Âm cực thì Kết, mạch đi chậm mà có lúc ngừng. MẠCH KHẨN VÀ HOÃNDựa theo sức chùng và căng của mạch. · Mạch Khẩn là hàn, làm tổn thương phần vinh, huyết, mạch lạc bị kích bác nhau. Nếu gặp khi phong thoát khỏi thủy vọt tràn thì lại như cắt dây, kéo thừng. · Hoãn là phong, làm tổn thương phần vệ, khí, vinh huyết không thông, mạch không đi nhanh được, giống như bước đi chậm rãi. MẠCH PHÙ VÀ TRẦMDựa vào sự thăng giáng của mạch. · Phù, bắt chước trời là khinh thanh, mạch nổi ở trên. · Trầm, bắt chước đất là trọng trọc, mạch chìm ở dưới. MẠCH PHỤC VÀ MẠCH ĐỘNG· Mạch Động: thấy ở bộ quan, hình như hạt đậu lăn dưới tay, khác với ở các bộ khác. · Mạch Phục ở sâu vào trong không thấy hình mà ở dưới gân, xương. MẠCH THỰC VÀ MẠCH HƯDựa theo sự cương nhu của mạch. · Mạch Thực: đường mạch sung thực, ấn tay nhẹ hoặc nặng cũng đều hữu lực. · Mạch Hư: đường mạch đi yếu, không thấy có lức ở dưới tay. MẠCH TRÌ VÀ MẠCH SÁCDựa theo sự nhanh chậm của mạch. · Mạch Sác: nhịp mạch đi nhanh. · Mạch Trì: nhịp mạch đi chậm. MẠCH TRƯỜNG VÀ MẠCH ĐOẢNDựa theo sự dài ngắn của mạch. · Mạch Trường thấy ở bộ xích và thốn, có khi thông suốt cả 3 bộ. · Mạch Đoản chỉ thấy ở xích hoặc thốn. Phải xem xét coi mạch có qua khoảng giữa (quan) hay không. Qua khoảng giữa là Trường, không qua khoảng giữa là Đoản.
|
|
|
Post by cuong on Jan 30, 2015 21:15:45 GMT
NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT TRONG PHƯƠNG PHÁP CHẨN MẠCH ĐÔNG Y
1- Thời Gian Xem Mạch Chẩn mạch thường vào lúc sáng sớm, âm khí chưa động, dương khí chưa tán, chưa ăn uống gì, kinh mạch chưa đầy, lạc mạch điều hòa, khí huyết chưa loạn, do đó, có thể tìm thấy mạch bệnh.Tuy nhiên nếu gặp bệnh thì bất cứ lúc nào cũng có thể chẩn mạch, không cần phảI chẩn mạch vào lúc sáng sớm. - Trước khi chẩn mạch, nên để cho người bệnh nghĩ 1 lát cho khí huyết được điều hòa. - Không nên xem mạch khi người bệnh ăn uống qúa no, đói qúa hoặc mới uống rượu, đi xa đến mà mệt mỏi... - Ngoài ra, ống tay áo người bệnh quá chật, hoàn cảnh chung quanh ồn ào... cũng có thể ảnh hưởng đến việc chẩn mạch. 2- Tư Thế Lúc Xem Mạch. Người bệnh nên ngồi thẳng thắn, tự nhiên hoặc nằm ngửa, cánh tay nên duỗi ra 2 bên, bàn tay để ngửa cho huyết mạch lưu thông tốt và không ảnh hưởng đến mạch. Vì nếu người bệnh nằm nghiêng thì cánh tay phía dưới đè lên làm mạch không chạy được. Nếu co tay lại thì bàn tay bị bế tắc, mạch không lưu thông. Nếu để xuôi tay thì máu dồn xuống làm mạch bị ứ trệ, nếu giơ tay lên cao thì khí chạy lên mà mạch nhảy. Nếu co cơ thể lại thì khí bị nén mà mạch bị gò bó. Nếu người cử động thì khí bị nhiễu loạn mà mạch chạy nhanh...” Thầy thuốc nên ngồi nghiêng đối với người bệnh, dùng tay trái để chẩn mạch ở tay phải người bệnh và ngược lại dùng tay phải chẩn mạch ở tay trái. 3- Định Hơi Thở Phương pháp chẩn mạch cốt ở tâm hư tĩnh.Thầy thuốc cần ổn định hơi thở, giữ vững tiêu chuẩn: 1 hơi thở ra, hít vào tương ứng với 4 lần mạch đập. Sau đó, căn cứ vào tiêu chuẩn này, tập trung chú ý vào các ngón tay đang đặt trên các bộ vị để thăm dò mạch tượng và số mạch đếm của người bệnh. 4- Cách Đặt Tay Chẩn MạchKhi đặt ngón tay xuống, đầu tiên đặt ngón tay giữa vào bộ quan (mé trong chỗ xương cao-ngang với lồi xương quay), rồi đặt luôn 2 ngón tay 2 (trỏ) và 4 (áp út) phía trước và sau thành 3 bộ mạch. Ngón tay trước (trên) là bộ thốn khẩu, ngón tay sau (dưới) là bộ xích. Nếu cẳng tay người bệnh dài thì đặt ngón tay thưa, nếu cẳng tay ngắn thì đặt các ngón tay khít nhau”. Khi đặt ngón tay (xem mạch) cần phải để đầu ngón tay bằng nhau vì mức độ cảm giác của da ở đầu các ngón tay đang xem mạch không giống (nhạy bén) như nhau... vì vậy, khi cần chẩn mạch, nên dùng chỉ nhĩ (chỗ đầu ngón tay nổi lên như sợi chỉ) để sờ, ấn. Ba ngón tay của người ta dài ngắn không bằng nhau, vì vậy phải để 3 đầu ngón tay bằng nhau, đốt ngón này ngang đốt ngón kia mới có thể chẩn mạch được. Nhưng da thịt đầu 3 ngón tay thì ngón trỏ nhạy cảm nhất, ngón giữa da dầy, ngón thứ 4 lại dầy và kém nhậy cảm hơn. Vì vậy, phải dùng cạnh của đầu ngón tay như sợi chỉ, gọi là chỉ mục (mắt của ngón tay) ấn lên sống mạch”. Điều quan trọng hơn nữa là không nên dựa vào mạch đập ở đầu ngón tay của mình mà nhận lầm với mạch đập của người bệnh, vì ở đầu ngón tay của thầy thuốc cũng có động mạch. Sau khi đặt tay đúng vị trí và đúng phương pháp, thầy thuốc phải biết vận dụng năng lực nặng nhẹ và di chuyển ngón tay để thăm dò mạch tượng. Chẩn mạch có 3 điều chủ yếu là Cử, Án và Tầm. Nhẹ tay sờ mạch gọi là Cử, nặng tay chẩn mạch gọi là Án, không nặng không nhẹ, uyển chuyển tìm kiếm gọi là Tầm. Hiện nay các nhà nghiên cứu mạch học nghiêng về cách sau: + Sơ (Khinh) Án: Bắt đầu đặt (đụng) ngón tay đến mạch của người bệnh để chẩn bệnh ở phủ. + Trung Án: Ấn nhẹ tay xuống 1 chút để biết về Vị khí. + Trầm (Trọng) Án: Ấn nặng tay xuống 1 ít để chẩn bệnh ở tạng. Cách chung, khi chẩn (xem) mạch, nên: · Xem chung cả 3 bộ (Tổng Khán) để nhận định về tình hình chung (thường được dùng nhất). · Xem riêng từng bộ phận (Đơn Khán) để đánh gía riêng từng cơ quan, tạng phủ. Ngoài ra, theo các nhà mạch học thì khi xem mạch còn cần phải chú ý đến 3 yếu tố là Vị Khí, Thần và Căn. 5- Vị Khí:· Có Vị khí thì sống, không có Vị khí thì chết, vì vậy, mạch lấy Vị khí làm gốc. · Muốn xét diễn tiến của bệnh tốt hoặc xấu nên lấy Vị khí làm chủ. Cách xét này về vị khí như sau: “Thí dụ, hôm nay mạch còn hòa hoãn mà ngày mai lại Huyền, Cấp thì biết rằng tà khí đang tiến triển, tà khí càng tiến, bệnh càng nặng. Hoặc hôm nay mạch rất Huyền, Cấp nhưng ngày mai lại thấy hòa hoãn thì biết là Vị khí đã đến, Vị khí đến thì bệnh nhẹ dần. Nếu như trong chốc lát mà mới đầu thấy mạch Cấp mà sau đó Hoãn là Vị khí đến, lúc đầu Hoãn mà sau đó Cấp là Vị khí mất”. 6- Thần: Gọi là thần của mạch tức là mạch đi nhu hòa. Thí dụ như bắt được mạch Vi Nhược thì tuy là Vi Nhược nhưng không đến mức vô lực là có thần, hoặc bắt được mạch Huyền Thực mà trong cái Huyền Thực vẫn thấy nhu hòa, là có thần. Tóm lại, mạch có Vị khí, có Thần đều là có hiện tượng xung hòa. Có Vị khí là có Thần khí, vì vậy, trên lâm sàng, cách chẩn đoán Vị khí và Thần như nhau”. 7- Căn:- Mười hai kinh mạch trong cơ thể đều nhờ ở chỗ động khí của Thận mà phát sinh. Thận khí còn cũng như cây có gốc (căn) cành lá tuy khô mà gốc chưa khô thì có hy vọng sống được. Thận khí chưa tuyệt thì mạch nhất định có căn. Mạch Trầm để chẩn tạng thận, bộ xích để chẩn về Thận, mạch ở bộ xích mà Trầm, có lực là dấu hiệu mạch có căn. Khi chẩn mạch phải chú ý đến sáu yếu tố: Thượng, Hạ, Lai, Khứ, Chí, Chỉ, ông viết: “Chẩn mạch nên biết sáu chữ: Thượng, Hạ, Lai, Khứ, Chí, Chỉ, không hiểu sáu chữ đó thì không phân biệt được âm dương hư thực. Thượng, Lai, Chí là dương, Hạ, Chỉ là âm. Thượng là từ bộ xích lên tới thốn khẩu đến bộ xích, âm sinh ở dương, Lai là từ trong thịt xuất ra chỗ trong da ngoài, sự tăng lên của khí. Khứ là từ chỗ trong da ngoài thịt đi vào thịt vào xương, sự giáng xuống của khí. Ứng là Chí, nghỉ là Chỉ. Câu danh ngôn sáu chữ (Thượng, Hạ, Lai, Khứ, Chí, Chỉ) của Hoạt Bá Nhân, các y gia của các thời đại đều cho rằng đã tìm được điều cốt yếu của việc chẩn mạch. · Thượng, Hạ là chỉ mạch chí thông suốt từ bộ xích đến bộ thốn, chỉ chẩn sát 1 bộ mà phải chú ý đến tình hình cả ba bộ thốn, quan, xích “Ở bộ thốn, mạch Hạ không đến bộ quan là dấu hiệu dương tuyệt, ở bộ xích, mạch Thượng không tới bộ quan là âm bị tuyệt”. · Lai, Khứ là chỉ sự thăng giáng của mạch. Thăng giáng không cấp bách, nhẹ nhàng, điều hòa là mạch tượng của mạch không có bệnh. Mạch Lai mà Tật, mạch Khứ mà Từ là dấu hiệu trên thực dưới hư (hoặc trong hư ngoài thực). Mạch Lai mà Từ, Mạch Khứ mà Tật là dấu hiệu trên hư dưới thực (hoặc ngoài hư trong thực). · ‘Chí Chỉ’ là chỉ vào chí và trong thời gian ngắn hay dài của các bộ mạch. Chí để chẩn mạch đến, thời gian ngắn hoặc dài của các bộ mạch. Chỉ thời gian ngắn dài ở bộ thượng có thể xét sự thịnh suy của chân dương để biện về yếu mạch của chân âm. Chỉ thời gian dài ngắn ở bộ hạ có thể xét sự thịnh suy của chân âm để biện về sự mạch yếu của chân dương”. 8- Không nên câu nệ về tính chất đặc thù của từng mạch.Thí dụ: Khi nói đến biểu là phải quy về mạch Phù, nhiệt là Sác, lý là Trầm, hàn là Trì, mạch Huyền, Cường là Thực, Tế, Vi là Hư... tuy nhiên, phải cần lưu ý đến các yếu tố chân, giả. “Mạch Phù tuy thuộc về biểu nhưng hễ âm hư, huyết thiếu, khí trung tiêu suy tổn sẽ thấy mạch Phù mà vô lực, vì vậy, không thể cho rằng mạch Phù hoàn toàn liên hệ với phần biểu. Mạch Trầm tuy thuộc về phần lý nhưng hễ ngoại tà mới cảm mà đã vào sâu thì hàn tà bó lấy kinh lạc, mạch khí không thông đạt được, sẽ thấy mạch Trầm, vì vậy, không thể cho rằng mạch Trầm hoàn toàn thuộc về phần lý. Mạch Sác là nhiệt, nhưng chân nhiệt chưa hẳn đã là Sác. Chứng hư tổn, âm dương đều bị khốn quẩn, khí huyết hỗn loạn, hư nhiều, mạch Sác cũng nhiều, vì vậy không thể nói là Sác hoàn toàn thuộc nhiệt được. Trì là hàn nhưng bệnh thương hàn, tà khí mới lui, nhiệt chưa hết, mạch phần nhiều là Trì Hoạt, vì vậy đừng cho rằng Trì hoàn toàn là hàn. Huyền, Cường thuộc Thực nhưng chân âm, vị khí hư quá và các chứng âm dương quan cách (bị ngăn trở), mạch sẽ Huyền, Cường, vì vậy Huyền cũng không hẳn là Thực, Mạch Vi, Tế thuộc hư trường hợp bị đau quá, khí bị bế, vinh vệ bị ủng trệ không thông, mạch sẽ phải ẩn nấp (Phục), vì vậy mạch Phục không phải hoàn toàn là Hư... từ đó có thể suy ra... trong các mạch đều có vấn đề”. 9- Sự Khác Nhau Lúc Mới Đặt Tay Vào Mạch Và Lúc Xem Mạch Một Lúc Thật Lâu.Có khi mạch mới xem và xem một lúc lâu có sự khác biệt. Thí dụ: Lúc mới xem thấy mạch nổi to, xem một lúc thấy mạch chìm lặng. Hoặc mới xem thấy mạch mềm nhũn, xem lâu lại thấy bật dưới tay. Có khi lúc đầu thấy mạch Huyền, một lúc sau lại là Hoãn.“Khi chẩn mạch loại khách tà bạo bệnh mà mạch Phù là đúng. Nếu bệnh đã lâu, sức đã hư tổn, nên chẩn căn khí làm gốc. Nếu thấy Phù, Đại, ấn tay lâu thấy chìm mất, là hiện tượng chính khí quá hư, không cần hỏi là bệnh lâu hoặc mới nhiễm, tuy rằng chứng mà thấy nóng nhiều, phiền nhiễu do chính khí suy không tự chủ được mà hư dương thoát ra ngoài. Khi mới xem mạch thấy Nhu, Nhuyễn, bắt đầu thấy bật dưới tay là dấu hiệu bệnh ở phần lý, phần biểu không bệnh. Không phải tạng khí bị thụ thương thì là kiên tích ẩn phục bên trong, trường hợp này không thể cho đó là mạch Trầm mà lầm là bị hư hàn. Mới xem thấy mạch hơi Huyền, xem lâu lại thấy hòa hoãn, hễ bệnh đã lâu thì sắp khỏi, khí huyết tuy kém nhưng tạng khí chưa bại. Cách chung, mạch của người bệnh lúc mới đặt tay vào tuy thấy vô lực hoặc Huyền Tế, không hòa hoãn, xem lâu trên mười chí lại thấy điều hòa dần, thì bệnh có thể chữa. Nếu mới xem mạch thấy hòa hoãn nhưng xem lâu lại thấy Vi, Sác không ứng tay hoặc dần dần Huyền, cứng (ngạnh) thì bệnh khó chữa”. 10- Bỏ Mạch Theo Chứng-Bỏ Chứng Theo Mạch.
Thông thường thì mạch và chứng tương ứng với nhau, nhưng có nhiều trường hợp mạch và chứng lại không đi đôi với nhau như dương chứng mà lại thấy mạch âm hoặc âm chứng mà thấy mạch dương... Sách ‘Y Biên’ giải thích rõ như sau: “Phàm bệnh mà và chứng không hợp thì một bên thật, một bên giả, cần phân biệt kỹ. Như bên ngoài tuy phiền nhiệt mà thấy mạch Vi, Nhược thì hư hỏa, hư tướng, lại chịu được công phạt sao?. Nên theo mạch mà chữa chứng chân hư chứ không theo chứng là giả tượng. Hoặc trường hợp bệnh vốn không có phiền nhiệt mà thấy mạch Hồng, Sác thì không phải là hỏa tà. Bệnh vốn không có trướng đầy, ứ trệ mà thấy mach Huyến, Cường thì không phải là chứng thực ở bên trong. Không nhiệt, không trướng lại có thể chịu được phép tả hay sao?. Nên theo chứng hư chứ không theo mạch giả thực... Nếu là tà làm thương tổn bên trong hoặc thực trệ, khí trệ mà bụng trên đau thắt đến nỗi mạch Trầm, Phục hoặc Xúc hoặc Kết, đó là tà bế tắc kinh lạc gây ra. Đã có chứng thực làm căn cứ thì mạch hư tức là gỉa, trường hợp này nên theo chứng chứ không theo mạch. Hoặc như bệnh thương hàn, tay chân gía lạnh, rét run mà mạch thấy Hoạt, Sác, đó là do nội nhiệt làm cách âm. Làm sao có thể biết được? Vì bệnh truyền từ kinh này sang kinh khác chứ không phải trực trúng âm kinh, từ chứng nhiệt chuyển sang hàn. Đã có mạch Sác, Hoạt làm căn cứ thì ngoại chứng là giả hư, cũng theo mạch chứ không theo chứng vậy”. Trường hợp nào nên bỏ mạch mà theo chứng, Lê Đức Thiếp trong sách ‘Định Ninh Tôi Học Mạch’ đã nhận định: Nên bỏ mạch theo chứng trong các trường hợp sau: - Những bệnh mà nhận xét về mạch khó chính xác như những người không thể chỉ căn cứ vào mạch hoặc những người không có bộ mạch để xem. - Những người thanh cao, 2 tay thường không có mạch, nếu có thì mạch đi rất êm dịu, nhẹ nhàng, bé nhỏ. - Những người thanh cao, 2 tay thường không có mạch, nếu có thì mạch đi rất êm dịu, nhẹ nhàng, bé nhỏ. - Những người mạch tay trái thường rất nhỏ hơn tay phải hoặc ngược lại. - Những người có mạch Phản Quan. - Những người không may bị cụt một hoặc cả hai tay. - Những người bị thương ngay vị trí để xem mạch 11. Mạch phản quanCó người, không tìm thấy mạch ở bộ vị thốn khẩu như bình thường mà lại thấy mạch ở phần trên đỉnh của bờ sau xương quay (ngang huyệt Liệt Khuyết) đi dọc xuống vùng lõm ở hố lào (huyệt Dương Khê), gọi là mạch PHẢN QUAN. Gặp loại mạch này, khi chẩn mạch, phải đặt bàn tay sấp xuống mới bắt được mạch. Loại mạch này có thể do bẩm sinh hoặc do bị chấn thương gây ra.. . 12. Mạch với kỳ kinh bát mạch¨ Mạch ở tay trái đi từ bộ xích hơi chếch lên bộ thốn và Trầm là mạch ÂM DUY bị bệnh. - Biểu hiện: đau trong tim (mạch Âm Duy đi vào phần âm, chủ về phần vinh, vinh là huyết, huyết thuộc về tâm, vì vậy đau trong tim). ¨ Mạch ở bộ xích thấy lúc thì co vào, lúc duỗi ra và có vẻ Trầm Tế là ÂM KIỀU MẠCH bị bệnh. Biểu hiện: dương khí không đủ mà âm khí vượng, thường hay buồn ngủ, phía ngoài bắp chân dễ chịu mà phía trong căng thẳng (theo Nan thứ 29: dương hoãn mà âm cấp). ¨ Mạch ở tay bên phải đi từ bộ xích hơi chếch lên bộ thốn và Phù là mạch DƯƠNG DUY bị bệnh. - Biểu hiện: thấy nóng, rét (lạnh), (mạch Dương Duy đi vào phần dương, chủ về phần vệ, vệ là khí, khí ở biểu vì vậy thấy nóng lạnh). ¨ Mạch ở 2 bộ thốn thấy lúc thì co vào, lúc duỗi ra và có vẻ Khẩn Tế là mạch DƯƠNG KIỀU bị bệnh. - Biểu hiện: âm khí suy mà dương khí thịnh sinh ra không ngủ được, phía trong bắp chân thì dễ chịu nhưng bên ngoài thì lại căng thẳng (Nan thứ 29 (N. Kinh): âm hoãn mà dương cấp). ¨ Mạch ở 2 bộ quan thấy lúc thì co vào lúc duỗi ra mà có vẻ Hoạt Khẩn là Mạch ĐỚI bị bệnh. Biểu hiện: bụng đầy trướng, eo lưng đau tê, ớn lạnh như ngồi trong nước, phụ nữ thì bụng dưới đau, kinh nguyệt không đều, xích bạch đái. ¨ 6 bộ mạch ở 2 tay để nhẹ mà đều đi Huyền Trường là mạch ĐỐC bị bệnh. Biểu hiện: Sống lưng cứng, không thể cúi ngưả được, uốn ván. ¨ 6 bộ mạch ở 2 tay đi Khẩn Tế mà Trường, ấn kỹ lại thấy đi như hạt châu chạy liên tiếp là mạch NHÂM bị bệnh. Biểu hiện: đàn ông thì bị chứng sán khí, đàn bà thì bị xích bạch đái hoặc tích tụ ở bụng dưới (trưng hà). ¨ 6 bộ mạch ở 2 tay phải ấn thật mạnh mới thấy đi Huyền Trường là mạch XUNG bị bệnh. Biểu hiện: khí từ bụng dưới xông lên, bụng trướng, đau. 13- Quan Hệ Giữa Mạch Và Ngũ HànhDùng ngũ hành áp dụng vào mạch ta thấy: Tay Bên TRÁI: Thận thủy (bộ xích) sinh Can mộc (quan), can mộc sinh Tâm hỏa (thốn). Tay Bên PHẢI: Mệnh môn hỏa (bộ xích) sinh Tỳ thổ (quan), tỳ thổ sinh Phế kim (thốn). 14- Mạch Và Khí HuyếtXét về khí huyết với mạch ta có: + Bên trái thuộc Huyết: Thận, Can và Tâm. Thận (tàng tinh, tinh sinh huyết ) - Can tàng huyết - Tâm chủ huyết. + Bên phải thuộc Khí: Mệnh môn (Tam tiêu) Tỳ và Phế. Tỳ là trung khí - Mệnh môn là nơi chứa nguyên khí - Tam tiêu là đường dẫn khí - Phế chủ khí. Vì vậy, mạch ở bên phải liên hệ với khí. 15- Quan Hệ Giữa Mạch Và MùaMỗi mùa ứng với một tạng nhất định, dù mùa đó cũng chi phối toàn thể các mạch khác trong suốt thời gian đó. + Mùa Xuân: Mạch Huyền · Cây cối xanh tốt vào mùa này, màu xanh ứng với màu của Can, do đó có mạch Huyền (mạch của Can). · Mùa xuân dương khí bắt đầu phát (thiếu dương) nhưng khí lạnh vẫn chưa hết, khí cơ còn có hiện tượng ước thúc, vì vậy mạch tượng thấy đầu thẳng mà dài, giống như giây đàn (Huyền). + Mùa Hè: Mạch Hồng · Cây cối lớn lên, sức nóng của mùa hè bùng lên, thiêu đốt vạn vật như lửa bùng lên (Hồng). · Vào mùa này, vạn vật tươi tốt, thịnh vượng, mạch đến thì thịnh mà đi thì suy, vì vậy sách ‘Nội Kinh’ gọi là mạch Câu. + Mùa Thu: Mạch Mao · Mọi vật bắt đầu thu lại, lá cây khô đi và rụng giống như lông, do đó mạch của mùa thu là mạch Mao. · Thời điểm này, dương khí bắt đầu suy, thế mạch đã giảm chỉ thấy Phù. Sách ‘Nội Kinh’ gọi là mạch Mao là hình dung thể mạch đến ứng dưới tay thấy nhẹ như lông (Mao). + Mùa Đông: Mạch Thạch · Mọi vật thu giữ lại, tàng trữ tất cả khả năng mạnh mẽ của mình để sống qua cái lạnh giá, vì vậy, mạch của mùa đông là mạch Thạch. · Mùa đông vạn vật bế tàng, thế đến của mạch khí trầm mà có sức bật vào ngón tay, sách ‘Nội Kinh’ gọi là mạch Thạch là hình dung mạch đến ứng vào tay có lực cứng như cục đá (Thạch). + Tứ Quý: Tứ Quý là chuyển tiếp giữa các mùa, vì vậy thường mang đặc tính ôn hòa, do đó mạch của Tứ Quý là mạch Hoãn. 16- Quan Hệ Giữa Mạch Và Lục Dâm. (Ngoại Tà)· Hàn làm hại (thương) Thận vì vậy có mạch Khẩn. · Thử làm hại (thương) Tâm vì vậy có mạch Hư. · Táo làm hại (thương) Phế vì vậy có mạch Sáp. · Thấp làm hại (thương) Tỳ vì vậy có mạch Nhu. · Phong làm hại (thương) Can vì vậy có mạch Phù. · Nhiệt làm hại (thương) Tâm bào vì vậy có mạch Nhược. 17- Mạch Và Thất Tình (Nội Nhân)· Hỷ thương Tâm gây nên mạch Hư. · Tư thương Tỳ gây nên mạch Kết. · Ưu thương Phế gây nên mạch Sáp. · Nộ thương Can gây nên mạch Nhu. · Khủng thương Thận gây nên mạch Trầm. · Kinh thương Đởm gây nên mạch Động. · Bi thương Tâm bào gây nên mạch Khẩn . 18. Mạch Và Nam Nữ “Mạch của phụ nữ thường nhu nhược (yếu) hơn mạch của nam giới”.Khi Xem mạch ‘Nam Tả Nữ Hữu’. Xem mạch, phái nam xem bên tay trái (làm chính), phái nữ xem bên tay phải (làm chính). “Xem mạch phái nam, mạch tay trái (dương) mạnh hơn tay phải (âm) là dương nhiều hơn âm là thuận. Ngược lại, mạch tay phải mà mạnh hơn tay trái là âm nhiều hơn dương không thuận, tức là người nam đó bị âm thịnh dương suy. Xem mạch người nữ mạch tay phải (âm) mạnh hơn tay trái (dương) là âm nhiều hơn dương là thuận. Ngược lại, nếu mạch tay trái mạnh hơn tay phải là dương nhiều hơn âm không thuận, tức là người nữ đó bị dương thịnh âm suy. Như vậy, việc xem ‘Nam Tả Nữ Hữu’ chủ yếu chỉ để xem âm dương thuận hoặc nghịch đối với người đó chứ không nhất thiết phải theo đúng quy cách trên. Điều chủ yếu trong câu ‘Nam Tả Nữ Hữu’ là chú ý vào hai bộ xích của cả nam lẫn nữ. + ‘Nam dĩ tả xích nhi tàng tinh’ hoặc ‘Nam dĩ tả xích vi tinh phủ’ (Nam tàng trữ tinh khí ở bộ xích bên tay trái). Xem mạch người nam, nếu bộ xích tay trái hòa hoãn, có lực thì biết rằng người đó tinh khí sung mãn, khỏe mạnh. Nếu bộ xích tay trái Trầm, Vi vô lực thì không khỏe... + ‘Nữ dĩ hữu xích nhi bào hộ’ hoặc ‘Nữ dĩ hữu xích vi huyết hải’ (Nữ liên hệ với bào thai và chứa huyết ở bộ xích). Xem mạch người nữ, nếu bộ xích tay phải hòa hoãn, có lực thì biết rằng tử cung và huyết của họ tốt. Nếu bộ xích tay phải Trầm, Vi vô lực thì không khỏe
|
|
|
Post by cuong on Jan 30, 2015 21:18:16 GMT
MẠCH LÝ Y HỌC CỔ TRUYỀN
A. ĐẠI CƯƠNG : Trong lâm sàng thực nghiệm, đối với các thầy thuốc YHCT, một trong những yếu tố chẩn đoán được coi là khó nhất, đó là việc xem mạch. Mạch tượng (hình thể của mạch) vừa là thực tại (sờ, bắt được) nhưng cũng rất trừu tượng. Xét về từng ý nghĩa của mạch, mỗi loại mạch có thể chủ một loại bệnh khác nhau. Ngoài ra mạch ở các vị trí khác nhau cũng biểu hiện bệnh lý khác nhau. Chữ MẠCH theo nguyên nghĩa có thể hiểu là: 1- Chữ Mạch một bên là chữ Huyết (血) một bên là chữ Phái ( 派) là ngành, là chi phái nhánh), ý nói rằng mạch là một nhánh của huyết, ở trong đó, huyết lưu thông. 2- Một bên là chữ Huyết (血) một bên là chữ Vĩnh ( 永 ) là lâu dài, ý nói có mạch thì có thể còn sống lâu dài (mất mạch, mạch không đập nữa là chết). 3- Một bên là chữ Nhục (肉 ) một bên là chữ (永 ) là lâu dài, ý nói có mạch thì sống lâu (không còn mạch thì chết). Như vậy, theo YHCT, mạch là biểu hiện của Khí, Huyết, lưu hành ngày đêm khắp cả cơ thể con người. Theo YHCT, chẩn mạch là thầy thuốc dùng ngón tay của mình, bắt mạch của người bệnh để phân biệt mạch tượng rồi kết hợp với các phép Vọng (nhìn), Văn (nghe), Vấn (hỏi), để chẩn đoán âm dương biểu lý, hàn nhiệt, hư thực của bệnh chứng. Chẩn đoán mạch tượng có thể hiểu rõ được sự biến hóa của bệnh, theo đó mà phân biệt chứng hậu, mặt khác lại có thể dò được sự thường hoặc biến của khí huyết, theo đó mà suy đoán được sự thịnh suy của chính khí, làm cho thầy thuốc có thể nắm vững được diễn biến trên lâm sàng”. B- CƠ CHẾ CỦA MẠCHMạch với Tâm có quan hệ với nhau theo từng nhịp thở. Tâm lại có quan hệ mật thiết với toàn bộ cơ thể. Vì vậy, cơ thể bị bệnh chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến mạch.Mạch là phủ của huyết, mạch Trường thì khí được trường, mạch Đoản thì khí bị bệnh, mạch Sác thì tâm phiền, mạch Đại thì bệnh đang tiến triển. Mạch là phủ của huyết, Vinh khí dựa vào mà đi trong mạch, Vệ khí dựa vào mà đi ở ngoài. Mạch theo khí đi, huyết theo mạch chạy. Vinh Vệ điều hòa, khí và huyết thông ứng, đó là người bình thường.
|
|
|
Post by cuong on Jan 30, 2015 21:19:52 GMT
MẠCH PHÙ
-Mạch Phù cũng là mạch Mao. Mạch mùa Thu tức là mạch của Phế, thuộc phương tây, muôn vật nhờ đó tới kỳ thu thành, vì vậy khi đến thì nhẹ, hư mà Phù, khi đến thì gấp, lúc đi thì tan tác,.Phù là nổi, Mạch lúc nào cũng nổi sát ở da vì vậy gọi là mạch Phù. MẠCH TƯỢNGMạch Phù là mạch dương, là mạch đi ở trên thịt, nhấc tay lên thì có dư, ấn tay xuống thì không đủ, đè xuống thì hơi giảm nhưng không rỗng, nhấc lên thì nổi phù lên mà đi lưu lợi.Mạch Phù đi nổi ở ngoài mặt da, ấn nhẹ thấy ứng ngay ở ngón tay HÌNH VẼ BIỂU DIỄN MẠCH PHÙ- Sách ‘Mạch Chẩn’ vẽ như sau: NGUYÊN NHÂNPhù là ứng với kinh lạc, cơ biểu, do tà khí xâm nhập vào 3 kinh dương, bức bách mạch khí ra ngoài, vì vậy tượng mạch nổi đầy lên (phuø) dưới ngón tay. Mạch Phù phát sinh có thể do: · Lượng máu ở tim tống ra được tăng lên. · Sức co bóp của thành mạch kém. Tà khí xâm nhập vào cơ biểu, tấu lý, vệ dương chống nhau với ngoại tà thì mạch khí biểu hiện ở ngoài ứng vào trong mà Phù. .Âm hư huyết thiếu, khí trung tiêu hư tổn ắt sinh ra Phù (vô lực). CHỦ BỆNHPhù mà tán là chứng chóng mặt, đi đứng không vững. Các mạch Phù mà người bệnh không nóng nẩy đều thuộc về dương, là bệnh nhiệt. Thái dương bệnh thì mạch Phù. Mạch Phù là bệnh ở phần biểu. Mạch ở bộ xích Phù: mắt vàng, chảy máu mũi. Mạch thốn khẩu Phù là trúng phong, phát sốt, đầu đau... Mạch bộ quan Phù thì bụng đầy không muốn ăn... Mạch bộ xích Phù là nhiệt phong tụ ở dưới, tiểu khó... Mạch ở bộ quan hơi Phù là nhiệt tích tụ ở Vị, nôn ra giun, hay quên. \Bộ thốn mà Phù là đầu đau, chóng mặt hoặc phong đàm tụ ở ngực. Bộ quan Phù là Tỳ suy, Can vượng. Bộ xích Phù (ở trung ấn) là tiểu không thông. Bộ Tâm (tả thốn) Phù thì thần không yên, nói cuồng, kinh sợ . Bộ Can (tả quan) Phù thì tê liệt, co quắp, tức ngực, cơ thể đau nhức. Bộ Thận (tả xích) Phù thì ói ra máu, lưng đau, răng đau. Phù mà vô lực là có nhọt ở đầu gối chân . Bộ Tỳ (hữu quan) Phù thì bị lỵ, suyễn, tiêu chảy, ăn kém . Bộ Phế (hữu thốn) Phù thì suyễn, trường phong, mặt nặng, Phế ung . Mạch Phù phần nhiều thấy ở chứng biểu, phong tà còn ở bên ngoài. Nếu như mạch Phù vô lực thì thuộc về hư chứng. Mạch Phù chỉ chứng ở biểu, có lực là biểu thực, không lực là biểu hư. Mạch Phù chủ bệnh nhiệt, đầu đau, gáy cứng, sợ lạnh, gió, ra mồ hôi, mũi nghẹt, ho khan, khát nước, suyễn, nôn, bỉ khối, phong thủy, bì thủy, khí nghịch lên, huyết hư. Tả Thốn PHÙ Tâm Dương bốc lên, mất ngủ, buồn bực. Hữu Thốn PHÙ Thương phong, cảm mạo, Phế khí nghịch , suyễn, ho khan.
Tả Quan PHÙ Can khí thống. Hữu Quan PHÙ Tỳ khí trướng, nôn mửa.
Xích PHÙ Thận khí không đủ, thắt lưng đau, chóng mặt, tiểu khó, kinh nguyệt không đều. KIÊM MẠCHMạch Phù mà Huyền là Thận bất túc. Tâm và Phế đều Phù làm sao mà phân biệt? -Thưa: Phù mà Đại, Tán là Tâm bệnh, Phù mà Đoản, Sáp là Phế bệnh. Mạch thốn khẩu Phù mà Khẩn. Phù là phong, Khẩn là hàn - Mạch Phù mà Hồng, mình đổ mồ hôi ra như dầu, suyễn, không nuốt nước miếng được, cơ thể mất cảm giác, khi tỉnh khi loạn, mạch sống tuyệt vậy Mạch Phù Trì, mặt nóng đỏ mà run sợ, trong 6-7 ngày phải ra mồ hôi mà giải, nếu không sẽ phát sốt mà mạch càng Trì. Trì là vô dương, vì vậy không cho ra mồ hôi được, thân mình người bệnh sẽ sinh ra ngứa. Dương minh bệnh, mạch Phù Khẩn thì nóng từng cơn mà phát tác có lúc. Tam dương cùng bệnh, mạch Phù Đại, chỉ có muốn nằm ngủ, mắt vừa nhắm thì ra mồ hôi. Kiết lỵ mà mạch lại Phù Sác ở bộ thốn, xích thì Sáp, đại tiện ắt phải có máu mủ. Đàn ông thấy mạch Phù Nhược mà Sáp thì tinh khí trong, lỏng, vì vậy mà không có con được. Mạch thốn khẩu Phù mà Đại, ấn tay lại thấy Sáp, nên biết là ăn không tiêu. Các mạch Phù Sác thì phát sốt, nếu lại sợ lạnh mà có chỗ đau thì phải phát ra mụt nhọt. Mạch Phù mà Đại là trúng phong, đầu nặng, mũi nghẹt 3 bộ mạch Phù mà Hoãn là bì phu mất cảm giác Phù, Hồng, Đại, Trường là chóng mặt, điên . Phù mà Hoạt là ăn không tiêu, Tỳ không vận hóa . Phù mà Tế Hoạt là thương thực Phù mà Đoản là Phế bị tổn thương. · Mạch Phù Trì là trúng phong. · Phù Sác là phong nhiệt. · Phù Hồng là hư nhiệt. · Phù Khẩn là phong hàn. · Phù Tán là hư lao. · Phù Hư là thương thử. · Phù Khổng là mất máu. · Phù Hoãn là phong thấp. ·· Phù Sáp là thấp. · Phù Hoạt là đàm hỏa, ăn uống không tiêu. Mạch Phù Sác là cảm nhiệt nhưng nếu thấy Phù Vi là bệnh sắp hết vì nhiệt tà không truyền sang kinh khác. Phù Trì là cảm hàn. Phù Khẩn là ngoại cảm thương hàn. Phù Đại là bệnh đang tiến triển. Phù Hoạt là cảm thấp khí sinh ra nhiều đàm nhớt . Phù Nhu là thương thấp, khí huyết hao mòn. Phù Huyền là bị ngoại cảm lại kèm khí huyết suy nhược.
|
|
|
Post by cuong on Jan 30, 2015 21:21:33 GMT
MẠCH TRẦM
- Trầm là chìm, mạch luôn chìm sâu dưới da, vì vậy gọi là Trầm.Mạch Trầm là mạch của mùa đông, tức là mạch của Thận, thuộc phương Bắc, hành thủy, muôn vật nhờ đó mà bế tàng, vì vậy mạch khí lúc đến thì Trầm mà bật mạnh lên, mạch Thận Trầm vì vậy mạch Trầm cũng gọi là mạch Thạch MẠCH TƯỢNGMạch Trầm ấn tay xuống thì không đủ, nhấc lên thì có dư. đi chìm ở khoảng gân xương, đặt nhẹ tay không thấy, nặng tay mới thấy, HÌNH VẼ BIỂU DIỄN MẠCH TRẦM
- Sách ‘Tam Tài Đồ Hội’ và sách ‘Đồ Chú Nan Kinh Mạch Quyết’ diễn tả mạch Trầm như sau: NGUYÊN NHÂNHàn khí bên ngoài xâm nhập vào sâu, bó lấy kinh lạc, làm cho mạch khí không thông đạt, sẽ xuất hiện mạch Trầm. Mạch Trầm là âm khí quyết nghịch dương khí không được thư sướng... Mạch Trầm là âm tà quá dư làm cho huyết khí ngưng đọng không phấn chấn... Nếu bệnh tụ ở dưới, ở phần lý, ắt sẽ thấy mạch Trầm. Tà uất ở phần lý, khí huyết ngưng trệ thì mạch Trầm mà có lực. Dương khí hư hãm xuống không thăng lên được thì mạch Trầm mà không có lực. CHỦ BỆNH Mạch của Can, Thận đều Trầm là chứng thạch thủy. Mạch của Phế Trầm mà bật lên là chứng Phế sán. Mạch của Tỳ, bên ngoài bật lên ngón tay mà bên trong Trầm là chứng trường tiết, lâu ngày cũng tự khỏi. Mạch Trầm mà Thạch là do Thận khí bị ngừng tắc ở trong. Mạch ở thốn khẩu Trầm là bệnh ở lý. Trong ngực có lưu ẩm, ắt ngắn hơi mà khát. Các khớp tay chân đau nhức, mạch Trầm là có lưu ẩm. Mạch Trầm, khát nước, tiểu khó đều là phát hoàng đản. Mạch ở thốn khẩu Trầm: trong ngực đau lan ra 2 bên sườn, có ngực có thủy khí. Mạch ở bộ quan Trầm là dưới tim có hơi lạnh, nuốt chua, mạch bộ xích Trầm là lưng và thắt lưng đau. Mạch Trầm phân nhiều thấy ở lý chứng, có tà khí phục ở bên trong, tuy nhiên chứng khí trệ hoặc khí hư cũng có thể thấy mạch Trầm. · Thốn TRẦM:đờm uất, thủy đình trệ ở ngực. · Quan TRẦM:trúng hàn, đau không thông. · Xích TRẦM: tiêu chảy, kiết kỵ, thận hư, lưng và hạ nguyên đau. Mạch Trầm chủ bệnh hàn, cơ thể đau, chân tay lạnh, xương khớp đau, thủy khí lưu ẩm, sưng phù, tay chân không nhấc lên được, đái hạ, huyết ứ, trưng hà, tiêu chảy, di tinh. Tả Thốn TRẦM Tâm dương bất túc. Hữu Thốn TRẦM Phế khí bất túc, ho, đàm ẩm, hụt hơi.
Tả Quan TRẦM Can uất, khí thống. Hữu Quan TRẦM Tỳ hư, tiêu chảy, ăn không tiêu.
Xích TRẦM Bụng dưới đau, thắt lưng đau. đầu gối đau, liệt dương, đái hạ, bụng đau, đàn bà thì huyết hải không đủ. KIÊM MẠCHCác mạch Trầm Tế đều thuộc về phần âm, là chứng đau ở xương. Mạch ở thốn khẩu Trầm mà cứng là bệnh ở trong, Trầm mà Nhược thuộc về bệnh hàn, nhiệt, sán, hà, bụng dưới đau. - Chương ‘ Biện Mạch Pháp’ (TH. Luận) ghi: “Hỏi mạch có dương kết và âm kết, lấy gì để phân biệt? Thưa: mạch Trầm mà Trì, không ăn được, cơ thể nặng nề, đại tiện lại cứng gọi là âm kết”. Đàn ông mà mạch Hư, Trầm, Huyền, không nóng lạnh, hơi thở ngắn, tiểu không thông, sắc mặt trắng, thường hay tối mắt, chảy máu mũi, bụng dưới đầy là do hư lao gây ra. Mạch Trầm mà Huyền là bị chứng huyền ẩm gây đau ở trong. Mạch Trầm mà Trì là trong bụng bị lạnh. Mạch Trầm mà Hoạt là hạ trọng, là sống lưng đau “. ”Âm tà xâm nhập thì thấy mạch Trầm mà Tế. · Trầm Trì : cảm lãnh. · Trầm Hoạt: đờm thực. · Trầm Khẩn: lạnh, đau. · Trầm Sác: nội nhiệt . · Trầm Lao: lãnh tích . · Trầm Sắc: khí uất. Trầm Trì là có lạnh, Trầm Sác là nhiệt ở phần lý, Trầm Huyền là thực, chủ hạ trọng, Trầm Hư là hư, chủ tiết lợi, Trầm Hoạt là đờm ẩm túc thực, Trầm Sáp là khí trệ, huyết không đủ, Trầm Khẩn là tà khí thịnh, chính khí hư, chủ lạnh, đau. Trầm Đại là táo ở phần lý. Trầm Lao là hàn tích ở trong.
|
|
|
Post by cuong on Jan 30, 2015 21:27:07 GMT
MẠCH TRÌ
Mạch Trì thuộc âm. Dinh (Vinh) khí hòa là Trì... MẠCH TƯỢNGMạch Trì mỗi hơi thở đập 3 lần, đến rồi đi rất chậm. HÌNH VẼ BIỂU DIỄN MẠCH TRÌ- Sách ‘Mạch Chẩn’ trình bày hình vẽ mạch Trì như sau : NGUYÊN NHÂNHàn khí ngưng trệ, dương khí không vận hóa được, vì vậy thấy mạch Trì Tà tụ nhiệt kết làm cho sự lưu hành của huyết mạch bị trở ngại cũng thấy mạch Trì. CHỦ BỆNHMạch Trì chủ chứng hàn Đàn bà bị trúng phong 6-7 ngày thì phát sốt, sợ lạnh, đến lúc có kinh thì bớt nóng, cơ thể mát mà mạch lại Trì, ngực sườn đầy tức, giống như chứng kết hung, lại thêm nói cuồng, đó là nhiệt nhập huyết thất. Kiết lỵ mà mạch Trầm Trì, sắc mặt nhạt, cơ thể hơi nóng, đi tiêu ra phân xanh... là vì ở dưới bị hư vậy. Mạch ở thốn khẩu Trì là thấy có hàn ở bên trên, tim đau, họng đau, nôn ra nước chua. Mạch bộ quan Trì là trong Vị có hàn. Mạch bộ xích Trì là hạ tiêu có hàn. Mạch Trì là bệnh ở tạng, hoặc đờm nhiều, trưng kết. Bộ thốn Trì là thượng tiêu bị hàn, bộ quan Trì là trung tiêu bị hàn, bụng đau không chịu nổi, bộ xích Trì là Thận hư, thắt lưng đau, tiểu không tự chủ, dịch hoàn sưng đau. Mạch Trì chủ bụng đầy, ho suyễn, tích hàn, đờm ẩm, dương hư, san tiết, trưng kết, tà nhiệt kết tụ. Trì mà có lực là nhiệt tà ủng kết ở kinh mạch. Tả Thốn TRÌ Tim đau. Hữu Thốn TRÌ Phế nuy.
Tả Quan TRÌ Can uất, trưng kết. Hữu Quan TRÌ Vị hàn, nuốt chua.
Tả Xích TRÌ Tiểu không tự chủ. Hữu Xích TRÌ Mệnh môn hỏa suy, san tiết.KIÊM MẠCHMạch Trầm, Tiểu, Trì gọi là thoát khí. Mạch ở thốn khẩu Phù mà Trì... Trì tức là lao... lao thì dinh khí suy nhược. Người bệnh ngực đầy, môi bệu, lưỡi xanh tím, miệng khô ráo, muốn ngậm nước súc miệng nhưng không muốn nuốt, không nóng lạnh, mạch hơi Đại mà Trì, bụng không đầy là có ứ huyết. Chứng trường ung thì bụng dưới sưng, có bỉ khối, ấn thì đau như đứng lâu, tiểu thường hay phát sốt, tự ra mồ hôi lại sợ lạnh, mạch Trì, Khẩn là đã thành mủ. - Trì mà Sáp là ở trong có trưng kết, Trì mà Hoãn là có hàn, Trầm mà Trì là trong bụng có lạnh. · Mạch Trì mà Phù là hàn ở phần biểu. · Trì mà Trầm là hàn ở phần lý. · Trì mà Sáp là huyết hư. · Trì mà Hoạt là đờm. · Trì mà Tế là chân dương suy. · Trì mà Hoạt, Đại là phong đờm.
|
|
|
Post by cuong on Jan 30, 2015 21:29:05 GMT
MẠCH SÁC
- Sác nguyên nghĩa là nhanh, nhiều lần, Mạch Sác là mạch thuộc dương, đi nhanh, nhiều lần (tính theo hơi thở hoặc nhịp đập của mạch ). HÌNH TƯỢNGMạch Sác là thái quá, Mạch đến rồi đi cấp bách,cứ lấy 1 hơi thở của thầy thuốc bình thường thì mạch người bệnh chạy 6 lần đến hơn mạch bình thường 2 lần đập.tương đương với 90 đập /phút. CÁC HÌNH VẼ BIỂU DIỄN MẠCH SÁC - Sách ‘Mạch Chẩn’ biểu diễn hình vẽ như sau: NGUYÊN NHÂNSác là dương thịnh, tà nhiệt kích động, mạch vận hành nhanh hơn, vì vậy mạch đi Sác Bệnh lâu ngày âm hư, dương thiên thắng cũng gây ra mạch Sác CHỦ BỆNHMồ hôi đã ra rồi mà mạch vẫn còn táo thịnh (Sác) thì sẽ chết. Mỗi hơi thở mạch đập 10 lần trở lên, đó là kinh khí bất túc, nếu thấy mạch đó, trong vòng 9-10 ngày thì chết. Mạch Sác là phiền nhiệt .Sau 3 ngày lại thấy mạch Sác mà nhiệt không giảm, đó là nhiệt khí có dư, ắt sinh ra nhọt mủ”-”Kiết lỵ mạch Sác mà lại khát nước, bệnh tự khỏi. Người bệnh ho, mạch ở thốn khẩu Sác trong miệng lại có nước miếng dơ là là bệnh phế nuy Chứng trường ung, ấn tay thấy mềm như bị sưng, bụng không có tích tụ, cơ thể không nóng, mạch Sác, đó là trong ruột có ung mủ. Mạch Sác là ói ra máu.Mạch Sác là bệnh ở phủ Mạch ở thốn khẩu mà Sác thì muốn nôn vì có nhiệt ở Vị quản, nung nấu trong ngực. Mạch bộ quan mà Sác là trong vị có tà nhiệt -Mạch bộ xích Sác thì sợ lạnh, dưới rốn nóng đau, tiểu tiện vàng đỏ. Sác... là phiền mãn. Bộ thốn Sác là đầu đau, nóng ở trên, Bộ quan Sác là Tỳ nhiệt, miệng hôi, nôn mửa. Bộ quan bên trái Sác là Can bị nhiệt, mắt đỏ. Bộ xích tay phải Sác thì tiểu vàng đỏ, táo bón. Vào mùa thu, bệnh ở phế mà thấy mạch Sác thì rất đáng sợ. Bộ thốn mạch Sác thì họng và miệng lưỡi lở loét, Phế sinh ung nhọt. Bộ Can Sác là can hỏa, vị hỏa. Mạch Sác... là hàn nhiệt, là hư lao, là ngoại tà, ung nhọt. Mạch Sác chủ bệnh ở phủ, nhiệt. Bộ thốn Sác là ho suyễn, miệng lở, phế ung. Bộ quan Sác là vị nhiệt, tà hỏa công lên trên. Bộ xích Sác là do tướng hỏa gây bệnh, vì thế, thấy các chứng trọc khí ở vị, tiểu buốt, tiểu bí. Mạch Sác vô lực là hư nhiệt, Sác có lực là thực nhiệt. Nếu mạch Nhân Nghinh cũng Sác có lực thì đó là ngoại cảm nhiệt tà. Tả Thốn SÁC Hỏa thịnh, tâm phiền. Hữu Thốn SÁC Ho suyễn, phế nuy.
Tả Quan SÁC Can Đởm hỏa vượng. Hữu Quan SÁC Tỳ Vị thực nhiệt.
Tả Xích SÁC Đái gắt, bí, di tinh, xích bạch trọc. Hữu Xích SÁC Đại tiện ra máu. KIÊM MẠCHMạch Huyền Sác là có đờm ẩm, vào mùa đông, mùa hạ thì khó chữa. Mạch Thiếu âm Hoạt mà Sác là lở loét ở âm bộ. Phù Sác là biểu nhiệt, Trầm Sác là lý nhiệt. Mạch ở khí khẩu Sác Thực là phế ung. · Mạch Sác mà Phù là nhiệt ở biểu. · Sác mà Trầm là nhiệt ở lý. · Sác mà Thực là phế ung. · Sác mà Hư là phế nuy. · Sác mà Tế là âm hư lao nhiệt. · Sác mà Hồng, Trường là ung nhọt. · Sác mà Hoạt Thực là đờm hỏa. · Sác mà Hồng là vong huyết. · Sác mà thịnh, Đại, ấn tay thấy Sáp thì bên ngoài tuy có chứng nhiệt nhưng bên trong lại hàn. Sác + Trầm là nhiệt ở phần lý, nhiệt từ trong bốc ra. Bốc lên thượng tiêu thì đầu đau, nóng nẩy, nhiệt này xông vào trung tiêu sẽ gây ra ợ chua, miệng hôi, nôn mửa. Nếu nhiệt bốc sang bên trái thì Can hỏa xông lên gây ra mắt đỏ. Nhiệt bốc sang bên phải thì tiểu đỏ, táo bón.
|
|
|
Post by cuong on Jan 30, 2015 21:43:25 GMT
MẠCH CÁCH
Cách là đầy, là cấp, Cách là da thuộc, ý nói tượng mạch cố kết không di động. HÌNH TƯỢNGMạch Cách là da thuộc, là Phù, Huyền, Đại, Hư, như ấn tay lên da trống, trong hư, ngoài cấp. Mạch Cách đi nổi mà dán vào tay, trong rỗng ngoài cứng, như đè lên mặt trống HÌNH VẼ BIỂU DIỄN MẠCH CÁCH.Sách ‘Mạch Chẩn’ ghi lại hình vẽ biểu thị mạch Cách: NGUYÊN NHÂN Mạch Cách là sự tương hợp giữa mạch Huyền và Khổng, do tinh huyết bên trong bị hư, Do khí hư không kiên cố, tinh huyết không tàng được, làm cho khí không có chỗ dựa mà phù việt ra ngoài CHỦ BỆNH Mạch cách chủ biểu hàn, trung hư,đàn bà thì xảy thai,rong huyết, băng huyết.đàn ông thì mất tinh, mất huyết, Tả Thốn CÁCH Tâm hư, đau. Hữu Thốn CÁCH Phế hư, khí ủng trệ.
Tả Quan CÁCH Sán Hà. Hữu Quan CÁCH Tỳ hư, dạ dầy đau.
Tả Xích CÁCH Di tinh.Hữu Xích CÁCH Xẩy thai, lậu hạ. KIÊM MẠCH BỆNH· Cách mà phù cứng là biểu tà cực thịnh. · Cách mà Hoãn, không có thần là âm khí tiêu tan, khó chữa.
|
|
|
Post by cuong on Jan 30, 2015 21:47:30 GMT
MẠCH ĐẠI
Đại là to lớn. HÌNH TƯỢNGMạch Đại, rộng và to khác thường, chỉ không cuồn cuộn như mạch Hồng mà thôi .Mạch tràn đầy, ứng dưới ngón tay lớn . Mạch Đại... sức mạnh đi phù án thì như nước nổi lên tràn đầy dưới ngón tay mà trầm án thì lại lan rộng ra mà mềm yếu đi, tức là phù án thì hữu lực còn trầm án thì vô lực”. HÌNH VẼ BIỂU DIỄN MẠCH ĐẠI.- Sách ‘Mạch Chẩn‘ biểu diễn hình vẽ mạch Đại: CHỦ BỆNHMạch Đại là bệnh nặng thêm. Tượng mạch thô Đại là âm không đủ, dương có dư, sẽ gây nên chứng nhiệt ở trung tiêu. Phế khí thịnh thì mạch Đại, mạch Đại thì không thể nằm ngửa. Mạch Tâm đầy, Đại sẽ phát ra chứng giản khiết, gân co quắp. Mạch Đại là huyết và khí đều thịnh - Mạch thấy Đại mà cứng là huyết khí đều thực. Mạch ở bộ quan Phù mà Đại là phong ở Vị, gây ra há miệng, so vai mà thở, vị quản khó chịu, ăn vào thì muốn ói. Mạch Đại chủ tà khí thịnh, chính khí suy. Bệnh thấy mạch Đại là bệnh sắp phát nặng. Bệnh mới mắc mà thấy Đại là thuộc thực, bệnh lâu ngày thấy mạch Đại thuộc Hư. Mạch Đại chủ tà nhiệt cảm nặng, thấp nhiệt, tích khí, ho suyễn, trường tiết, khí đưa nghịch lên làm mặt bị phù, hư lao nội thương . Tả Thốn ĐẠI Tâm phiền, phong nhiệt, kinh sợ. Hữu Thốn ĐẠI Khí nghịch, mặt phù, ho suyễn.
Tả Quan ĐẠI Sán khí, phong huyễn. Hữu Quan ĐẠI Tích khí, vị thực, bụng đầy.
Tả Xích ĐẠI Thận tý. Hữu Xích ĐẠI Tiểu đỏ, táo bón. KIÊM MẠCHMạch Tỳ hiện đến thì mạch Đại mà hư là trong bụng có tích khí, nếu có quyết khí thì gọi là quyết sán. Nam nữ cùng một chứng trạng như nhau, do chân tay đang ra mồ hôi mà gặp gió. Mạch thận hiện đến thì trên cứng mà Đại, đó là có tích khí ở vùng giữa bụng dưới với tiền âm gọi là chứng thận tý, bị chứng này là do tắm gội nước lạnh xong mà đi nằm ngay. Mạch Huyền mà Đại. Huyền tức giảm, Đại tức là Hồng. Giảm là hàn, Hồng là hư. Hàn và Hư tương bác gọi là Cách. Đàn bà gặp mạch này thì lậu hạ, xảy thai, đàn ông thì vong huyết, thất (mất) tinh. Mạch ở thốn khẩu Phù, Đại... Phù là vô huyết, Đại là hàn, hàn khí tương bác gây ra bụng sôi. Mạch ở thốn khẩu Phù mà Đại. Phù là hư, Đại là thực, (mạch này) thấy ở bộ thốn là chứng “Cách”, thấy ở bộ xích là chứng ‘Quan’. Quan thì không tiểu được, Cách thì ói ngược. Mạch Hồng, Đại, khẩn cấp là bệnh đang tiến nhanh ở bên ngoài, đầu đau, phát sốt, nhọt sưng. Mạch bộ thốn Đại mà bộ xích lại Tiểu là đầu đau, mắt hoa. Mạch ở bộ thốn Tiểu mà ở bộ xích lại Đại là ngực đầy, hụt hơi”. Mạch ở thốn khẩu Hồng Đại thì ngực sườn đầy tức. Mạch Đại, Phù, Hồng, Trường là chứng phong huyễn, điên tật. · Mạch Đại mà Phù là hư hoặc biểu bị nhiệt. · Mạch Đại mà Trầm là phần lý bị nhiệt, bệnh ở Thận. · Mạch Đại mà Huyền là nóng lạnh. · Mạch Đại mà Nhu là hư nhiệt. · Mạch Đại mà Hoãn là thấp nhiệt. · Mạch Đại mà Hồng là Vị bị thực. MẠCH ĐẠI Là thay đổi HÌNH DẠNGMạch Đại cũng gần như Mạch Sắc Mạch Nhu . Nhưng Sắc và Nhu thị chỉ dít không nhão, mềm mà không nghỉ, Còn mạch Đại thì đã dít khó nhãomềm mà chốc chốc lại nghỉ. Mạch Đại gần như Mạch Xúc và Mạch Kết. Ngưng Xúc và Kết mỗi lần nghỉ thì tới nhiều, ít không nhất định. Còn Đại thì mỗi lần nghỉ, mạch tới có số nhất định .Thí dụ nhưn: Khi đầu 1o lần động 1 lần nghỉ thì sau đó đều 10 lần động 1 lần nghỉ . NGUYÊN NHÂNKhi tạng khí tuyệt thì thấy Mạch Đại. CHỦ BỆNHĐại là tạng khí tuyệt. Người khỏe thấy Mạch Đại ắt chết, người bệnh thấy Mạch Đại thì may còn chữa được,Bệnh đau như: Tâm thống, Phúc thống, cảm gió, trúng gió, bệnh đờm, bệnh thấp, và đàn bà có thai 3 tháng mà thấy Mạch Đại thì không việc gì. Có người khí huyết thình lình bị tổn , Người khí không được điều hòa thì cũng thấy Mạch Đại, · Mạch Đại mà Thực là có tích khí.
|
|
|
Post by cuong on Jan 30, 2015 21:57:32 GMT
MẠCH ĐOẢN
Mạch Đoản thuộc Âm mạch, mức độ ngắn,Mạch đi dưới tay, thấy không đến vị trí của mạch, gọi là mạch Đoản. HÌNH TƯỢNG Mạch Đoản, ngắn, mà Sáp, nhỏ, đầu đuôi như không có, ở giữa nổi lên, không đến được vị của 3 bộ. HÌNH VẼ BIỂU DIỄN MẠCH ĐOẢN- Sách ‘Mạch Chẩn’(M.Kinh) biểu diễn hình vẽ mạch Đoản như sau: NGUYÊN NHÂNMạch Đoản... do khí không được điều hòa, hư thì thuộc Phế, thực thì thuộc về Vị. Mạch Đoản...do âm dương không đến bản vị. Vị khí ủng tắc không thông đều được các mạch, hoặc do đàm khí, ăn không tiêu làm trở ngại đường vận hành của khí, vì vậy thấy mạch Đoản. Cũng có khi do dương khí không thông. Mạch Đoản là vì khí bị hư không đủ sức để dẫn huyết. Hoặc do huyết trệ, khí uất hoặc đàm trệ khí uất, hoặc đàm trệ thực tích làm cho khí đạo và mạch khí không thông cũng thấy mạch Đoản” Mạch Đoản mà có lực, chủ khí thực, do khí bị uất hoặc khí của Tam tiêu bị ứ, hoặc do đờm, thức ăn ngăn trở ở hoành cách mô gây ra mạch Đoản. CHỦ BỆNH Mạch ở thốn khẩu đụng vào ngón tay là Đoản thì đầu đau.bộ xích Đoản thì bụng đau Mạch Đoản ...thuộc Âm trung phục dương, chủ khí của Tam tiêu bị ứ tắc, ăn uống không tiêu. Mạch Đoản chủ khí bị hư.Mạch Đoản thấy ở chứng bất túc, nguyên khí hư suy Mạch Đoản, nếu hữu lực thì chủ về khí bị uất, nếu vô lực thì chủ về khí bị tổn thương. Mạch Đoản chủ hơi thở ngắn, huyết hư, phế hư, ăn không tiêu, mồ hôi ra nhiều, dương khí bị vong. Hữu Thốn ĐOẢN Phế hư, đầu đau. Tả Thốn ĐOẢN Tâm thần, bất túc.
Hữu Quan ĐOẢN Vị quản đầy, tức, không thông. Tả Quan ĐOẢN Phế khí, tổn thương.
Hữu Xích ĐOẢN Chân dương suy yếu. Tả Xích ĐOẢN Bụng dưới đau. KIÊM MẠCHMạch Phù, Đoản là Phế bị tổn thương, các khí đều ít, không quá 1 năm thì chết. Mạch Đoản mà Sác thì tim đau, buồn bực. Mạch Xúc, Đoản mà Sác là do độc khí phạm vào tâm, mạch đạo bị quẫn bách mà ra, là chứng chết. Phù mà Đoản thì doanh vệ không hành, Trầm mà Đoản là tạng phủ có bỉ khối, ứ trệ. · Đoản Sác là tim đau, buồn bực. · Đoản, Hoạt, Sác là do uống rượu làm hại thần trí. · Phù mà Đoản là huyết bị sáp trệ hoặc phế bị tổn thương. · Trầm mà Đoản là bí kết. Mạch Đoản mà Phù là Phế khí bị hư hoặc huyết bị sáp, Đoản mà Sáp là Tâm khí bị hư hoặc Tâm mạch bị ứ trệ, Đoản mà Trầm là có bỉ khối, Đoản mà Trì là hư hàn.
|
|
|
Post by cuong on Jan 30, 2015 21:59:25 GMT
MẠCH ĐỘNG
Là lăn chuyễn HÌNH DẠNGMạch Động nghĩa là lăn chuyển. Mạch nhấc tay lên thấy như không có nhưng luôn đó lại có ngay. Khi có thì như hạt đậu lúc lắc, không ra khỏi không đi cũng không lại. NGUYÊN NHÂNCơ thể bị hư lao thì thấy Mạch Đại. CHỦ BỆNHMạch Động phần nhiều thấy ở Quan bộ, Nếu thấy ở Nhân nghênh thì vì lạnh mà đau, Thấy ở Khí Khẩu là có sự kinh sợ. Mạch Động thường thân thể hư lao hoặc băng huyết , nhiều đờm, lị ra huyết hay là chân tay co quắp, Phế khô vỵ tuyệt
|
|
|
Post by cuong on Jan 30, 2015 22:02:10 GMT
MẠCH HOÃN
ĐẠI CƯƠNG Hoãn là hòa hoãn.Vệ khí hòa gọi là Hoãn. - Âm mạch và dương mạch điều hòa gọi là Hoãn.Ấn tay thấy mạch vẫn y nguyên gọi là Hoãn HÌNH TƯỢNGMạch Hoãn, 1 hơi thở 4 chí, như sợi tơ ở dưới tay, không cấp bách, qua lại thong thả, khoan hòa, đều đặn, số mạch đập không thay đổi mấy.Hoãn qua lại cũng chậm, nhanh hơn Trì một ít.Mạch Hoãn thuộc loại tần số trung bình từ 60-80 lần / phút HÌNH VẼ BIỂU THỊ MẠCH HOÃN - Sách ‘Mạch Chẩn’ ghi hình vẽ mạch Hoãn như sau: NGUYÊN NHÂNTỳ thuộc thổ mà chủ thấp, khí cơ bị thấp tà mà khốn đốn vì vậy thấy mạch Hoãn. Do khí cơ bị thấp tà dính lại gây nên. Tỳ Vị hư yếu, mà Tỳ Vị là nguồn của khí huyết, khí huyết bất túc, không vận hành được, kết lại gây nên mạch Hoãn, Khí huyết đều hư vì vậy mạch đến thong thả [Hoãn] CHỦ BỆNHMạch ở bộ xích và thốn mà đều và Hoãn thì bệnh ở quyết âm Thái Dương bệnh, mạch bộ thốn Hoãn, bộ quan Phù, bộ xích Thực, phát sốt, ra mồ hôi sợ lạnh, không nôn mửa, chỉ thấy mạch Vi, Hoãn, đầy tức, đó là do thầy thuốc sử dụng phép Hạ gây ra. Thương Hàn, mạch Phù Hoãn, bì phu mất cảm giác là phong hàn ở cơ nhục, Mạch bộ quan Hoãn, biếng ăn là do vị khí không điều hòa, Tỳ khí không đủ. Mạch bộ xích Hoãn thì chân yếu, tiểu tiện không thông. Mạch thốn khẩu Hoãn, bì phu mất cảm giác là phong hàn ở cơ nhục,Mạch Hoãn là hư,Mạch Hoãn là nhiệt nhiều, Mạch Hoãn là phong, là hư, là tý, là yếu, là đau, ở trên là gáy cứng, ở dưới là chân yếu. Mạch bộ thốn bên trái Hoãn là tâm khí không đủ, hồi hộp, hay quên, gáy và lưng đau cấp - Mạch bộ quan (trái) Hoãn là phong hư, chóng mặt, khí kết ở bụng sườn - Mạch bộ xích (trái) Hoãn là Thận hư hàn, tiểu khó, kinh nguyệt ra nhiều - Mạch bộ thốn (phải) Hoãn là Phế khí phù lên, thở ngắn - Mạch bộ quan (phải) Hoãn là Vị khí hư yếu - Mạch bộ xích (phải) Hoãn là chân lạnh yếu, phong bí, khí trệ Mạch Hoãn là phần vinh (huyết) bị suy mà phần vệ (khí) lại dư, là phong hoặc thấp hoặc Tỳ hư, trên là gáy cứng đau, dưới là chân tê bại. Mạch Hoãn chủ về phong thấp, trúng phong, đau nhức, hoa mắt, chóng mặt, hư nhức, ung nhọt, tiểu khó. Tả Thốn HOÃN Tâm khí không đủ. Hữu Thốn HOÃN Thương phong. Tả Quan HOÃN Can hư. Hữu Quan HOÃN Tỳ thấp. Tả Xích HOÃN Âm hư. Hữu Xích HOÃN Dương suy. KIÊM MẠCH BỆNH· Mạch Hoãn mà Phù là thương phong ở phần biểu. · Mạch Hoãn mà Trầm là thấp tý. · Mạch Hoãn mà Hoạt là nóng ở trong. · Mạch Hoãn mà Sáp là huyết hư. · Mạch Hoãn mà Trầm, Tế, vô lực là dương hư.
|
|
|
Post by cuong on Jan 30, 2015 22:07:55 GMT
MẠCH HOẠT
- Hoạt là trơn tru, sức mạch đi trơn tru như chuỗi hạt châu (viên ngọc) lăn (động) dưới ngón tay. Người thường mạch Hoạt mà xung hòa là dấu hiệu vinh vệ đầy đủ. Phụ nữ không bệnh mà thấy mạch Hoạt thì nên xét xem có thai hay không HÌNH TƯỢNGMạch Hoạt qua lại lưu lợi,trơn tròn như hạt châu lăn trong mâm, như mưa móc đọng trên lá sen HÌNH VẼ BIỂU DIỄN MẠCH HOẠT- Sách ‘Mạch Chẩn’ ghi lại hình vẽ biểu diễn mạch Hoạt như sau: NGUYÊN NHÂNDo tà khí ủng thịnh bên trong, chính khí bất túc, khí thực, huyết dũng, khiến cho mạch đi lưu lợi, ứng dưới tay thấy Hoạt, tròn.oặc đàm thực kết trệ bên trong, tà khí thịnh, thực, cũng gây ra mạch Hoạt. Nguyên nhân phát sinh mạch Hoạt có thể do: · Lượng máu ở tim tống ra bình thường hoặc tăng cao. · Thành mạch co dãn bình thường. · Tăng vận tốc tuần hoàn. · Dòng máu chảy thông suốt. D- MẠCH HOẠT CHỦ BỆNHMạch Hoạt là dương khí thịnh chủ bệnh đờm, thực, nhiệt, là thực trệ, nôn mưả, đầy tức Mạch Hoạt chủ ói nghịch, ho khạc, phục đờm, thủy ẩm, súc huyết, trung mãn, ăn không tiêu, kiết lỵ, sán khí - Phụ nữ bộ xích hoạt là khí ủng trệ gây ra kinh nguyệt không thông. Hoạt mà lưu lợi là có thai Mạch Tâm... Hoạt thậm thì khát nước, hơi Hoạt là chứng Tâm sán kéo xuống đến rốn, bụng dưới sôi. -Mạch Phế... Hoạt thậm thì hắt hơi, khí nghịch lên, hơi Hoạt là trên dưới đều ra máu. - Mạch Can... Hoạt thậm là chứng đồi sán, hơi Hoạt là chứng đái dầm - Mạch Tỳ... Hoạt là chứng đồi sán,bí tiểu, dịch hoàn viêm, loét, hơi Hoạt là chứng cốt nuy (xương mềm yếu), ngồi không dậy được, dậy thì tối mắt không nhìn thấy gì Bộ thốn Hoạt chủ về ói mửa, đờm ẩm. Bộ quan Hoạt chủ về Vị bị nhiệt không ăn uống được, ăn vào thì ói. Bộ xích Hoạt chủ về tiểu đỏ, tiểu ít, dương vật đau buốt”. · Nếu huyết thịnh thì mạch Hoạt là không có bệnh. · Đàn bà có thai thì mạch Họat cũng là không bệnh. · Chứng đờm và ăn không tiêu thì cũng mạch Hoạt. · Khi tà khí nặng thì mạch cũng Hoạt. · Có bệnh mà thấy mạch Hoạt thì đều thuận lợi. Tả Thốn HOẠT Tâm nhiệt, kinh sợ, mất ngủ. Hữu Thốn HOẠT Đờm ẩm, nôn mửa
Tả Quan HOẠT Can nhiệt, đầu váng. Hữu Quan HOẠT Tỳ nhiệt, ăn không tiêu.
Tả Xích HOẠT Lậu, tiểu đỏ, tiểu khó. Hữu Xích HOẠT Bụng sôi, tiêu chảy hoặc tướng hỏa bốc lên. KIÊM MẠCHMạch Hoạt Phù mà Tật là mới bệnh”. “Mạch Hoãn mà Hoạt là chứng nhiệt ở trung (bộ)”. - “Bộ xích Sáp mà mạch lại Hoạt là chứng ra mồ hôi”. - Thiên ‘Thông Bình Hư Thực Luận’ (T. Vấn 28) ghi: “Hoàng Đế hỏi: Chứng trường tích ra lẫn mủ, máu thì như thế nào? - Kỳ Bá thưa: mạch Tuyệt thì chết, mạch Hoạt Đại thì sống. - Hoàng Đế hỏi: chứng trường tích mà cơ thể không nóng, mạch không Tuyệt thì sao? - Kỳ Bá thưa: mạch khí bật lên, Đại mà Hoạt thì lâu ngày sẽ tự khỏi, nếu mạch Tiểu Cấp và cứng thì sẽ chết, không chữa được”. Mạch khí của Tâm bật lên, Hoạt mà Cấp là chứng Tâm sán Chứng tiểu kết hung ngay ở dưới tim, đè vào thì đau, mạch Phù Hoạt, đó là biểu có nhiệt, lý có hàn. - Thái dương bệnh lại dùng phép hạ... thấy mạch Trầm Hoạt là chứng nhiệt lỵ, thấy Phù Hoạt sẽ tiểu ra máu. Mạch bộ thốn Trầm, Đại mà Hoạt, Trầm là Thực, Hoạt là khí thực, khí tương bác, huyết khí vào tạng thì chết, vào phủ thì sẽ khỏi, đó là chứng ‘thốt quyết’. Mạch phu dương Phù mà Hoạt, Hoạt là cốc khí thực, Phù thì tự nhiên ra mồ hôi Trong miệng khô ráo, ho thì đau ở ngực, mạch lại Hoạt Sác, đó là chứng Phế ung, khạc ra mủ máu. Mạch Sác mà Hoạt là thực, có thức ăn tích lại không tiêu. Mạch Phù mà Tế Hoạt là chứng thương ẩm. Mạch ở thốn khẩu Trầm Hoạt, trong có thủy khí, mắt mặt sưng phù, có nhiệt, gọi là chứng phong thủy. Mạch Hoạt mà hơi Phù là bệnh ở Phế. Mạch ở thốn khẩu Hoạt mà Trì, không Trầm, không Phù, không Trường không Đoản là không có bệnh, bên trái và bên phải giống nhau. Mạch bộ quan Hoạt mà lại Đại, Tiểu không đều là bệnh đang tiến, không quá 1-2 ngày thì phát. Người bệnh muốn uống nhiều, uống vào thì đi tả ngay, nếu ngừng thì sống. không ngừng thì chết. Mạch bộ xích Hoạt mà Tật là huyết hư. Trì mà Hoạt là đầy trướng. Hoạt mà Sác là âm kết nhiệt. Hoạt Tật là có nhiệt ở Vị. Hoãn mà Hoạt là nhiệt ở trung (bộ). Trầm mà Hoạt là mót rặn, lưng đau. Mạch Phù Hoạt là phong đờm, Trầm Hoạt là đờm tụ do thức ăn, Hoạt Sác là đờm hỏa, Hoạt Đoản là không muốn ăn. - Sách ‘Mạch Học Giảng Nghĩa’ ghi: “ · Mạch Hoạt Phù là biểu nhiệt hoặc phong đờm. · Hoạt Trầm là lý nhiệt hoặc đờm ẩm. · Hoạt Sác là Vị bị nhiệt, ăn không tiêu. · Hoạt Trì là tiêu chảy”.
|
|
|
Post by cuong on Jan 30, 2015 22:24:22 GMT
MẠCH HỒNG
Mạch Câu, mạch Thịnh, mạch Hồng là một Mạch Câu, ứng với thời lệnh là mùa hè, ở tạng là Tâm, thuộc hỏa, phương nam, muôn vật nhờ đó mà thịnh trưởng. vì thế mạch khí lúc đến thì thịnh, lúc đi thì suy, do đó gọi là Câu. HÌNH TƯỢNGMạch Hồng là dương trong dương vì vậy mạch khí lúc đến thì thịnh, lúc đi thì suy . Mạch Hồng to mà thực, nhấc tay lên hoặc ấn xuống đều có lực Mạch Hồng, mạch tới cuồn cuộn đầy dẫy như sóng vỗ dưới ngón tay, khi đến mạch lớn, lúc đi mạch kém dần. HÌNH VẼ BIỂU DIỄN MẠCH HỒNG- Sách ‘Mạch Chẩn’ biểu diễn hình vẽ mạch Hồng: NGUYÊN NHÂNNhiệt tràn đầy ở bên trong, đường mạch to ra và đẩy trào lên, gây ra mạch Hồng. Nhiệt là thương tổn phần âm, âm khí hư ở bên trong mà dương khí phù việt ra bên ngoài cũng gây ra mạch Hồng. Phát sinh ra mạch Hồng có thể do: · Lượng máu ở tim tống (đẩy) ra tăng lên. · Mạch máu ngoại biên bị dãn . · Huyết áp tâm thu cao . · Huyết áp tâm trương thấp . · Mạch áp lớn . · Tốc độ máu chảy nhanh. CHỦ BỆNHMạch Thịnh da nóng, bụng trướng, đái tiểu tiện không thông là ngũ thực. Mạch Hồng chủ về nhiệt... đó là cả vinh lẫn vệ đều rất nóng, khí huyết bị nung đốt, nóng cả ở phần biểu và lý. Bộ thốn Hồng chủ về thượng tiêu, trong lồng ngực có nhiệt. Bộ quan Hồng chủ về nhiệt ở vị, ói mửa, phiên vị. Bộ xích Hồng chủ về nhiệt ở nửa người, đại tiện khó, tiêu ra máu. Mạch Hồng gặp ở chứng tà khí thịnh, hỏa quá mạnh. Nhưng nếu mạch Hồng mà vô lực đó là hư Hồng, là hiện chứng của Hỏa bốc lên mà Thủy bị cạn. Mạch Hồng chủ đầy, đau, nhiệt, phiền. Mạch Hồng chủ phần doanh và lạc có nhiệt nhiều, họng khô, đại tiểu tiện không thông. Mạch Hồng chủ bệnh phiền táo, tráng nhiệt, phiền khát, ói ra máu, đầy trướng, ra mồ hôi, thử nhiệt. Tả Thốn HỒNG Tâm phiền, lưỡi lở loét. Hữu Thốn HỒNG Ngực đầy, khí nghịch.
Tả Quan HỒNG Can Mộc quá vượng.
Hữu Quan HỒNG Vị nhiệt, đầy tức.
Tả Xích HỒNG Thủy khô kiệt, đái gắt.
Hữu Xích HỒNG Long hỏa thiêu đốt. KIÊM MẠCHTrường ung, thấy mạch Hồng Sác là đã thành mủ. Trong bụng đau thì mạch phải nên Trầm, nếu lại thấy Huyền mà Hồng Sác là có giun đũa. Mạch Đại, Hồng, Khẩn, Sác là bệnh tiến triển nhanh, ở bên ngoài là đầu đau, phát sốt, ung thủng. Mạch Phù, Hồng, Đại, Trường là phong huyễn, điên tật. Mạch Hồng, Đại là thương hàn nhiệt bệnh”. “Dương tà xâm nhập thì mạch Phù, Hồng. · Mạch Hồng Đại là nhiệt thịnh. · Hồng Phù là biểu nhiệt hoặc hư nhiệt. · Hồng Trầm là lý nhiệt hoặc nhiệt bị hàn bao bọc. · Hồng Khẩn là ngực đầy tức, đại tiện khó mà ra máu.
|
|