Post by cuong on Aug 14, 2015 20:41:14 GMT
link
Ðông và Tây, hai cách suy luận
Bác Sĩ Ðặng Trần Hào
Ðông dược dùng thuật ngữ mà người phương Tây nghe chói tai như: phong, thấp, táo, nhiệt. Tuy khác biệt về ngôn ngữ nhưng chữa trị kết quả giống nhau. Thí dụ: Tây y không nhận ra thấp, nhưng có chữa trị cái mà Ðông y gọi là thấp nhiệt, Tây y không dùng danh từ hỏa, nhưng có thể chữa trị cái mà Ðông y gọi thận hỏa vượng, ảnh hưởng tới phế. Tây y coi phong không phải là nguyên nhân gây ra bệnh, nhưng thực ra họ đã ngăn ngừa được gan phong đưa lên trên đầu và họ đã dập tắt được phong xâm nhập vào da. Tuy diễn tả khác nhau về ngôn ngữ nhưng chữa trị lành bệnh giống nhau. Tây y quan tâm vào sự cô lập vi trùng hay vi khuẩn và tiêu diệt chúng. Thí du: Mổ trên đầu để loại bỏ một cục bướu đơn thuần. Ðông y tập trung vào hội chứng, triệu chứng rồi đưa ra phương cách chữa trị. Tập trung vào nguyên nhân gây ra bệnh. Bệnh có thể ảnh hưởng nhiều phần trong cơ thể và sự liên quan này có thể định bệnh chính xác hơn và cho thuốc nhiều hay ít dẫn vào những vùng mà tạng phủ thụ bệnh.
Trong khi Ðông y tập trung vào sinh lý và tâm lý bệnh nhân, môi trường sống, công ăn việc làm, các triệu chứng. Tất cả nhưng sự kiện này gọi là hội chứng, đem ra so sánh mà định bệnh để chữa trị. Hay còn gọi là sự mất quân bình tạng phủ của từng bệnh nhân. Ðông y định bệnh không chú tâm vào bản chất của bệnh và những chi tiết gây ra, nhưng trợ giúp nhẹ nhàng làm gia tăng sức đề kháng bằng cách cho thuốc uống tổng quát, nhưng vẫn tập trung vào nơi thụ bệnh của tạng phủ.
Câu hỏi nguyên nhân và hậu quả chỉ là phụ mà câu hỏi chính là “Cái gì liên quan giữa x và y, chứ không phải là x sinh ra y.” Ðông phương chú tâm vào tổng thể hơn chi tiết, tập trung vào hội chứng và sự mất quan bình mà đưa ra phương thức chẩn trị và hồi phục lại sức khỏe.
Chúng ta có thể nhìn thấy một cách rõ ràng hơn bằng cách định bệnh và chữa trị một số bệnh nhân nhức đầu và đau bụng do loét bao tử gây ra được bệnh viện tại Trung Hoa trong lâm sàng cho biết:
Thí dụ: Một bệnh nhân nhức đầu, dĩ nhiên nhức đầu là do vùng đầu khí huyết không thông, hay bị ung bướu, v.v...
Ðối với Ðông y định bệnh nhức đầu do tạng phủ nào gây ra nhức ở vùng nào trên đầu: Nhức đầu phía trước trán thường liên quan tới bao tử. Nhức hai bên đầu liên quan tới gan và mật. Nhức đỉnh đầu liên quan tới thân. Nhức sau ót liên quan tới bang quang. Sau khi định được tạng phủ nào gây ra nhức đầu rồi mới định nhức đầu do khí, huyết, phong, thấp, hàn và nhiệt, v.v...
Ðối với bác sĩ Tây y đau bao tử sau khi soi và chụp quang tuyến tìm ra bị loét bao tử. Các bác sĩ chỉ nhìn cái ngọn mà không tìm nguyên nhân nào gây ra loét bao tử và dĩ nhiên cho thuốc các bệnh nhân giống nhau.
Nhưng các bác sĩ Ðông y đã định bệnh các bệnh nhân này tuần tự như sau:
Bệnh nhân thứ nhất sau khi khi ấn bụng cảm thấy đau gia tăng, nhưng chườm khăn lạnh bệnh nhân cảm thấy dễ chịu. Bệnh nhân này cơ thể cường tráng, mặt hồng, tiếng nói sang sảng, bị bón và nước tiểu vàng. Rêu lưỡi bệnh nhân vàng và trơn. Mạch trường và huyền. Bác sĩ Ðông y dựa vào hội chứng này định bệnh: Thấp nhiệt trong tì.
Ðối với bệnh nhân thứ hai người gầy gò, mặt tái mét, gò má đỏ, long bàn tay hay chảy mồ hôi, ngủ chập chờn về đêm, hay tiểu đêm, lạnh chân, ra mồ hôi đêm, hay lo sợ và mệt mỏi nhất là về chiều. Lưỡi khô và đỏ. Mạch sắc và vi. Bác sĩ định là âm suy ảnh hưởng bao tử.
Bệnh nhân thứ ba khi nắn bóp và cứu bớt đau nhưng nó chỉ giúp chút chút, vẫn thấy khó chịu. giảm đau sau khi ăn, nhưng cũng chỉ tạm thời. Bệnh nhân sợ lạnh, mặt xanh, tự nhiên ra mồ hôi ban ngày và ngủ rất nhiều, nước tiểu trong và đi nhiều lần, hay thức dậy giữa đêm mặc dù là bàng quang không có nước tiểu. hay e lệ và sợ sệt. Lưỡi ướt và hơi trắng. Mạch khổng. Bác sĩ định bệnh là: Thoát hỏa ở trung tiêu.
Bệnh nhân thứ tư than đau quặn, di chuyển cảm thấy nặng nề, chườm nước nóng thấy giảm đau, nhưng xoa bóp bụng thấy khó chịu, mặt trắng bệch, đi cầu hay phân lỏng. Rêu lưỡi trắng và dầy. Mạch huyền và hoạt. Bác sĩ định là: Quá nhiều thấp làm ảnh hưởng tì và vị.
Bệnh nhân thứ năm đánh hơi rất nhiều và đau đầu, đau cảm như dao đâm, nắn bóp thấy dễ chịu. Dùng nóng hay lạnh áp dụng không hiệu quả. Bệnh nhân hay lo âu, giận dữ, buồn nản và đau gia tăng vào kỳ ra kinh. Lưỡi bình thường. Mạch huyền. Bác sĩ định bệnh là gan khí phạm tì.
Bệnh nhân thứ sáu đau dữ dội và như dùi đâm vào bao tử, đôi khi lan qua đàng sau. Ðau hơn khi ăn vào và khó chịu khi ấn nhẹ vào bụng. Ðôi khi bị mửa ra máu tươi hay đi cầu ra phân đen như bùn và tanh mùi máu. Bệnh nhân gầy gò và sắc mặt trắng bạch. Lưỡi mầu tím thẫm và hai cạnh đỏ. Mạch sáp, được định là mất quân bình gây ra huyết ứ trong bao tử.
Ðông y nhìn hội chứng và triệu chứng trong khi Tây y không quan tâm tới. Cho nên chỉ định có một bệnh là loét bao tử.
Sau đây mời quí vị theo dõi và suy ngẫm về sự nhận thức của Bác Sĩ Andrew Weil, MD, tốt nghiệp đại học nổi tiếng Harvad tại Boston viết và tôi phỏng dịch sau:
“Ðể tôi đưa ra một thí dụ tại sao có sự khác biệt về triết lý, dẫn tới sự khác biệt về thực hành. Ở phương Tây, khoa Tây y chú trọng chính vào sự tấn công từ bên ngoài của bệnh tật và phát triển những phương pháp và dụng cụ chế ngự nó. Nhờ vào sự khám phá tuyệt vời của trụ sinh trong bán thế kỷ qua và với sự chiến thắng những bệnh tật do vi trùng gây ra bằng trụ sinh. Sự thành công tuyệt vời này, đã chế ngự tâm trí con người và đã thuyết phục được hầu hết mọi người cho rằng thuốc Tây với kỹ thuật sản xuất là hiệu quả nhất. Không cần biết về tốn kém. Trong khi đó Ðông y, nhất là tại Trung Hoa. Ðông dược đã có phần khác biệt về mục đích. Người Á Ðông đã nghiên cứu cách làm sao gia tăng sức đề kháng của bệnh tật, và chúng ta có thể giữ được khỏe mạnh bằng cách đề phòng bệnh tật. Trong sự học hỏi của bác sĩ Ðông y đã khám phá ra sự tự nhiên của thiên nhiên là chất bổ dưỡng cho cơ thể. Mặc dầu Tây y đã phục vụ sức khỏe cho con người rất tốt trong nửa thế kỷ qua, nhưng nói về lâu về dài thì sự hữu hiệu không còn như mong muốn khi so sánh với Ðông y.
“Cái vũ khí nguy hiểm có thể ngấm ngầm đốt cháy gây nên thương tổn đối với ai dùng nó và nó có thể gia tăng dữ dội đối với kẻ thù. Thực sự những bệnh nhiễm trùng, các bác sĩ chuyên khoa trên thế giới ngày nay đã đôi khi phải bó tay bởi sự chống trả lại của những vi trùng. Vừa ngày hôm nay, tôi đã nhận được một bản tin nghiên cứu lâm sàng của các bác sĩ tại Ðại Học Y Khoa Arizona, là nơi tôi giảng dạy, đã chính thức ra thông báo về sự chống lại của vi trùng và vi khuẩn là: “Tai họa mới” như sau:
“Trong khi sự tiêu diệt những vi trùng và vi khuẩn được coi như “thuốc kỳ diệu” của bán thế kỷ thứ 20, các trung tâm nghiên cứu và chẩn trị đang nhức nhối và lo ngại về sự chống lại của những vi trùng đối với thuốc là vấn đề chính trong lâm sàng. Có nhiều giải pháp đã đưa ra. Trong kỹ nghệ thuốc Tây đang cố gắng khám phá thuốc mới, ít bị ảnh hưởng đối với sự chống lại của vi trùng. Thật là bất hạnh khi các vi trùng đã phát triển nhanh, chống lại sự đối kháng của cơ thể... mặc dù với bệnh nhân tại bệnh viện đã được áp dụng tuyệt đối những thủ tục kiềm soát nhiễm trùng. Những nhân viên làm việc trong trung tâm bảo toàn sức khỏe cần phải biết sự chống lại của các vi trùng và vi rus đang gia tăng phi mã trong lâm sàng trị liệu và ảnh hưởng trực tiếp tới sự vô vọng mà bệnh nhân phải chấp nhận.
“Có nghĩa là bệnh nhân sẽ chết vì bị nhiễm trùng mà bác sĩ không thể chữa bằng trụ sinh được nữa. Thực sự trụ sinh đang xuống dốc thê thảm và những bác sĩ chuyên môn đang cố gắng tìm phương cách nào đó để trị liệu thay vì chúng ta không còn bao lâu lệ thuộc vào nó.
“Chúng ta có thể quay lại những phương pháp đã được dùng trong bệnh viện vào thập niên 1920 tới 1930 trước khi có trụ sinh như: áp dụng tuyệt đối cách ly, hy vọng tương lai gần phải thay đổi quan niệm để phối hợp và áp dụng trở lại trong triết lý Tây y.
“Trong khi đó sự kháng cự của vi trùng đã không xẩy ra đối với chất bổ dưỡng dùng trong y khoa Ðông phương, bởi vì Ðông y đã không dùng thuốc đánh thẳng vào vi trùng, mà là gia tăng hệ phòng thủ và ảnh hưởng tới tế bào của hệ miễn nhiễm, giúp bệnh nhân chống lại mọi sự nhiễm trùng mà không trực tiếp chống lại vi trùng. Ngoài ra trụ sinh chỉ ảnh hưởng chống lại vi trùng, không dùng cho những bệnh tật gây ra bởi virus. Sức mạnh của Tây y không còn khả năng để chống lại virus thấy rõ ràng ở bệnh AIDS.
“Ðông dược quan niệm gia tăng sự đề kháng bằng cách phòng bệnh và cho rằng cơ thể có khả năng đề kháng tự nhiên chống lại mọi loại vi trùng bệnh tật. Nên quan niệm này đã nổi bật trong Ðông dược. Nếu chúng ta áp dụng, đã không bị khủng hoảng về săn sóc y tế ngày nay, bởi vì phương pháp đã biết lợi dụng khả năng tự nhiên lành bệnh, đỡ tốn kém rất nhiều đối với Tây y ngày nay và cũng an toàn hơn và hiệu quả hơn đối với thời gian.
“Tây y chú tâm vào dập tắt bệnh tật, trong khi Ðông y chú trọng vào tự nhiên khỏi bệnh của cơ thể mà Trời ban cho. Nguồn gốc bệnh là ngoại cảnh, còn lành bệnh là tự nhiên. Danh từ lành bệnh có nghĩa là tổng thể (making whole) có nghĩa là lấy lại sức lực và quân bình lại âm dương. Tôi rất thích thú theo dõi những chuyện bệnh nhân tự nhiên hết bệnh và tôi nghĩ quí vị cũng vậy. Có thể trong cuộc đời quí vị cũng đã có gặp trường hợp tự nhiên hết bệnh là thường, ngay cả ung thư cũng thế. Ðối với trường hợp này các bác sĩ Tây y tại các trung tâm trưởng cũng chỉ cười xòa và cho là kỳ diệu. và nghĩ có thể chỉ là tạm thời thay vì vĩnh viễn. Ðiều gì đã xảy ra khi một số người lành bệnh do cầu nguyện, phải chăng là cơ thể tự điều chỉnh.”
Bác Sĩ Andrew Weil MD muốn kêu gọi sự lưu tâm chung về bản chất tự nhiên từ bên trong làm khỏi bệnh, mặc dầu khi chúng ta chữa trị, chúng ta phải áp dụng mang tới kết quả tốt hơn. những kết quả này được thể hiện, chẳng qua do sự kích động tự nhiên mà lành bệnh dù dưới bất cứ cảnh huống nào, cơ thể có thể được điều động, không cần bất cứ sự kích thích nào từ bên ngoài. Nếu chúng ta có sức khỏe tốt, chúng ta nên tìm hiểu về hệ thống tự chữa trị của thân thể tăng cường những điều kiện tốt này. Chẳng hạn chúng ta bệnh hay người thân của chúng ta bị bệnh, chúng ta cần biết về hệ thống này vì nó là tốt nhất để phục hồi sức khỏe.
Bác sĩ muốn đưa ra những trường hợp hiển nhiên do tự nhiên lành bệnh mà những chứng cớ vẫn còn trong hồ sơ, gồm cả những sự bất đồng ý kiến tại bất cứ tổ chức nào của khoa sinh vật học. Những phương pháp tự định bệnh, tự lành bệnh vẫn hiện hữu trong con người. Các loại thuốc biết lợi dụng tính tự nhiên lành bệnh này thì kết quả gia tăng hơn là dùng thuốc để dập tắt. Trong bài này có nhiều câu chuyện về người bệnh mà tôi đã chứng kiến và đã lành bệnh mà thường đã được các bác sĩ tiên liệu là không còn phương cứu chữa và chỉ còn sống từng giờ, từng ngày mà lại có thể khả quan với phép chữa trị cổ xưa. Và tôi đang thực hiện những điều đó, tôi rất thích thú với những trường hợp đặc biệt này và tôi càng ngày càng có nhiều trường hợp và tôi tin tưởng bất cứ người nào hướng tới sẽ tìm được những phương pháp chữa trị khác nhau... Tự hết bệnh thường xảy ra, không phải họa hoằn. Chúng ta có thể vô cùng ngạc nhiên về những tường hợp người bị ung thư tự nhiên hết bệnh. Nhưng chúng ta phải chú tâm vào những hoạt động bình thường, hệ thống điều chỉnh tự nhiên của con người, như chữa trị những thương tích. Thực sự điều này là bình thường, ngày qua ngày làm việc của hệ thống tự chỉnh đề lành bệnh vô cùng bình thường.
Chúng ta sẽ tìm thấy ở đây những sự kiện đã được sửa đổi trong cách sống gia tăng hệ tự lành bệnh của con người tới mức tối đa gồm: thức ăn, môi trường ô nhiễm, thể dục, giảm căng thẳng, vitamins, dược thảo phụ và những dược thảo bổ dưỡng, tất cả những điều này sẽ giúp bạn giữ cho sức khỏe tốt. Và ông cũng đề nghị một chương trình tám tuần cho thay đổi cách sống, thói quen, những điều này sẽ giúp gia tăng sức mạnh của hệ thống tự điều chỉnh cho cơ thể lành bệnh.
Sau khi phân tích sự mạnh yếu của Tây y và Ðông y và xác định những trường hợp khả tín đã dùng thành công cho bệnh nhân. Bác sĩ đưa ra những đề nghị dùng phương pháp tự nhiên để giảm thiểu những loại bệnh thông thường, kể cả ung thư là loại bệnh đặc biệt, bởi đây là loại bệnh có nhiều hy vọng đối với tự điều chỉnh hết bệnh của cơ thể, nhưng chọn lựa cách chữa trị đòi hỏi phải phân tích cẩn thận về điều kiện của mỗi bệnh nhân. Những sự nghiên cứu về “Những toa thuốc thường dùng” phải uyển chuyển cân nhắc sao cho các trường đại học y khoa hiện tại nên thay đổi để thích hợp với phương pháp trị liệu, làm gia tăng sức khỏe và phòng bệnh hơn chữa bệnh. Cho tới ngày nay, một số các bác sĩ và các nhà khoa học đã lưu tâm tới những trường hợp tự nhiên hết bệnh. Khái niệm bên trong tự điều chỉnh hết bệnh không còn mơ hồ và xa lạ đối với họ nữa. Ông khẳng định rằng, “Chúng ta càng nắm vững những khái niệm, chúng ta càng có nhiều kinh nghiệm về tự nhiên hết bệnh trong cuộc sống, và chúng ta càng ít phải dùng tới thuốc, vì nó không cần thiết và đôi khi có phản ứng không lường và tiêu phí nhiều tiền bạc. Y khoa Ðông phương đã phục vụ chúng ta tốt hơn nền y khoa hiện đại vì: nó an toàn hơn, bảo đảm hơn và rẻ hơn. Tôi nói ra điều này trong sự cố gắng để giúp mang nó vào y khoa hiện tại.”