Post by cuong on Oct 3, 2015 1:33:23 GMT
Nghe Không Rõ
link
BS Ðặng Trần Hào
Thận khai khiếu tại nhĩ, cho nên bất cứ một sự mất quân bình nào của thận là ảnh hưởng tới tai. Ngoài thận còn do những nguyên khác như gan hỏa vượng, thiếu máu, đàm hỏa thượng nghịch...
Thận còn tàng tinh, là nguồn gốc để bảo tồn nòi giống. Quá trình hoạt động của thận được gọi là quá trình thịnh, suy của thận dương và thận âm. Thận còn chủ cốt tủy, vì thận có công năng sinh tủy, sinh xương. Thận còn sinh tủy và não bộ là bể chứa tủy. Ngoài ra thận còn chủ về thủy: nước uống vào dạ dầy. Dạ dầy và lá lách khi chưng bốc mà đưa lên phế, phế khí túc giáng, thủy dịch chẩy xuống mà dồn về thận.
Thận thuộc hành thủy, tóc mượt mà hay khô cằn do thận âm thịnh hay suy. Sợ hãi liên quan tới thận, nếu gặp điều gì quá khiếp đảm thường làm hại thận.
Thận tinh là vật chất cơ bản của hoạt động đời sống, thứ tinh của nam nữ giao hợp, là nguồn gốc để sinh tồn nòi giống và tinh do ăn uống tạo ra là chất dinh dưỡng cơ thể nhờ vào đó mà sinh tồn. Tinh nam nữ giao hợp là tinh tiên thiên, tinh do đồ ăn là tinh hậu thiên. Hai thứ này đều tàng chứa trong thận; tinh tiên thiên bẩm thụ từ cha mẹ, tổ tiên, bắt đầu từ lúc mới là phôi thai, cho đến lúc già chết mới hết, luôn luôn sinh trưởng hóa dục. Sự hình thành của tinh tiên thiên từ khi còn trong trứng nước được nuôi dưỡng bởi tinh hậu thiên do đồ ăn uống hậu thiên. Vì thế tinh tiên thiên là căn bản, tinh hậu thiên là điền kiện. Hai thứ đó có quan hệ hỗ tương cho nhau.
Tàng tinh là công năng quan trọng của thận. Từ sự sinh dục của cơ thể, cho đến sự sinh nòi đẻ giống về sau đều là tác dụng của thận tinh. Tác dụng của thận tinh còn gọi là thận khí, quá trình phát dục của cơ thể cũng là quá trình biến hóa thịnh suy của thận khí. Cho nên con gái cứ 7 năm và con trai 8 năm cơ thể thay đổi một lần, gọi là những giai đoạn thay đổi của một kiếp sống con người.
Con gái 14 tuổi và con trai 16 tuổi ngũ tạng, lục phủ được phát dục rất sung mãn, cơ nhục năng sinh bắt đầu thành thực, nên có sự thay đổi, răng thay, tóc dài, con gái có kinh nguyệt, con trai có tinh tràn ra, lúc bấy giờ nếu trai gái giao hợp thì sẽ có khả năng sinh đẻ. Khi tới thời kỳ thu tàn nữ giới khoảng 49 tuổi, nam giới 64 tuổi thì tiên thiên qui kiệt, kinh nguyệt dứt, tinh ít, không thể có con được nữa, đồng thời cơ thể cũng già yếu dần dần.
Tinh rất quan trọng trong đời sống con người, nếu tinh suy yếu làm chúng ta tai nghe không rõ, mất khí lực, mệt mỏi, hay quên, khó tập trung trong khi làm việc giao tế hàng ngày, chân bị yếu...
Sau đây là những nguyên nhân tai nghe không rõ trong lâm sàng thường gặp:
1. Tai nghe không rõ do thận âm suy (hư chứng)
Thận âm suy có nghĩa là phần âm của thận bị giảm xuống dưới mức bình thường, trong khi phần dương vẫn bình thường. Vì phần cách biệt giữa âm và dương là phần dương, mà dương thuộc hỏa, nhưng vì âm suy nên mới có phần hỏa này, nên Ðông y gọi phần này là hư hỏa (giả nhiệt), chứ không phải thực hỏa.
Vì thận âm suy, âm không đủ để thăng lên trên và dương không giáng xuống dưới được nên gây ra chân hay bị lạnh, nóng ở gan bàn chân, gan bàn tay và phần trước và sau ngực.
Như chúng ta đã biết vạn vật đồng nhất thể, vũ trụ vần xoay từ ngày (dương) sang đêm (âm). Cơ thể con người cũng phải biến đổi nhịp nhàng với vũ trụ, cho nên khi vũ trụ vần xoay từ dương sang âm, nghĩa là từ sáng qua chiều và đêm, nếu cơ thể yếu không thể điều chỉnh theo sự biến đổi của âm dương vũ trụ được, thì phần âm và dương trong cơ thể lại cách biệt nhiều hơn, sẽ gây ra phần giả nhiệt nhiều hơn. Cho nên người bị thận âm suy về chiều sẽ mệt mỏi hơn buổi sáng, càng về đêm hư hỏa(giả nhiệt) càng gia tăng, nếu lâu ngày không chữa, thận âm càng suy thêm, hư hỏa càng gia tăng thì gây ra ù tai liên tục. Theo ngũ hành thận thuộc hành thủy và tim thuộc hành hỏa tương khắc với nhau, một khi thận âm suy sẽ làm tim không có chỗ tựa, nên đập nhanh hơn bình thường vào đêm. Vì tim tàng thần, mà thần không có chỗ để tàng nên gây ngủ chập chờn, ngủ không ngon giấc, nếu thận suy nhiều thì đôi khi thức trắng đêm, đi tiểu nhiều lần nhất là về đêm, phừng mặt để lâu gây nám mặt, dưới mắt quầng đen, miệng, lưỡi khô, khát nước, nhưng không uống nhiều. Nếu giả nhiệt ít thì tai nghe không rõ, nhiều thì bị ù tai, lở miệng, lở lưỡi làm ăn uống trở ngại, đau miệng, thắt lưng đau và yếu, chân yếu bất lực, chóng mặt, váng đầu, mắt khô và mờ nhất vào buổi chiều, ăn lúc ngon lúc không, mệt mỏi, đau nhức mình và chân tay, đàn ông xuất tinh sớm, đàn bà lạnh cảm và ra mồ hôi đêm. Lưỡi đỏ và khô. Mạch vi và sác.
Bài thuốc
Sơn thù du 9 gs
Quy bản 9 grs
Mẫu đơm bì 9 grs
Phục linh 9 grs
Trạch tả 9 grs
Hoài sơn 9 grs
Thục địa 18 grs
Quế bì 9 grs
Ngưu tất 6 grs
Nhiệm vụ của các vị thuốc:
-Toa thuốc có tác dụng bổ âm. Thục địa bổ thận và gia tăng lượng huyết, giảm đau.
-Sơn thù du làm ôn gan và giúp tăng cường sức mạnh cho thận.
-Mẫu đơn bì: Giúp thanh nhiệt và giảm huyết nhiệt.
-Sơn dược: Nuôi tỳ và tăng cường thận.
-Phục linh: Gia tăng tiểu tiện, giảm sưng, giảm thấp nhiệt trong tỳ.
-Trạch tả: Tăng cường thính giác, lợi tiểu, bổ mắt bớt khô và mờ
-Quế bì dẫn hỏa qui nguyên, có nghĩa là đưa hỏa xuống chân, chân sẽ ấm và phần thượng tiêu sẽ mát thì tai sẽ nghe rõ hơn.
-Quy bàn: Bổ huyết.
-Ngưu tất: Dẫn thuốc xuống chân.
2. Nghe không rõ do can huyết bất túc
Trong trường hợp này ngoài nghe không rõ còn kèm thêm tiếng lách cách hay tiếng nổ, lúc nặng, lúc nhẹ, hoặc tai có tiếng như ve kêu, kèm mắt khô, rít, chóng mặt, choáng váng, móng tay và chân khô là do can huyết hư. Bệnh tình kéo dài, mệt mỏi đau lưng.
Bài thuốc
Ðảng sâm 15 grs
Phục linh 9 grs
Xuyên khung 9 grs
Sơn thù du 9 grs
Hoàng kỳ 15 grs
Cát căn 12 grs
Trạch tả 9 grs
Ðan sâm 9 grs
Ðương quy 12 grs
Câu kỷ tử 15
Cát căn 9 grs
Cân đằng 9 grs
Cam thảo 6 grs
-Xuyên khung, đương quy: Bổ can huyết.
-Sơn thù du, câu kỷ từ: Tăng cường thính giác, thanh can hỏa.
-Cát căn, đan sâm: Trị chóng mặt, choáng váng.
-Ðảng sâm, phục linh, hoàng kỳ, cam thảo: Bổ tỳ khí, kiện toàn tiêu hóa, sinh huyết, giúp mắt hết khô.
-Cát căn, câu đằng:Tăng cường thính giác và trị chóng mặt.
3. Nghe không rõ do thận dương suy
Thận dương suy còn gọi là mạng môn hỏa suy: bệnh nhân lạnh tứ chi, mặt trắng bệch hay đen kịt, đau vùng thắt lưng, ù tai xuất tinh sớm, rụng răng trước tuổi, mất thính giác, liệt dương, nước tiểu trắng trong, đi tiểu nhiều lần, ngày nhiều hơn đêm, són đái, phù chân, nhạt miệng, rêu lưỡi trắng. Mạch trầm , trì và vô lực.
Bài thuốc
Lộc nhung 30 grs
Nhục quế 9 grs
Từ thạch 30 grs
Mẫu lệ 15 grs
Bá kích thiên 12 grs
Nhục thung dung 12 grs
Ngũ vị tử 20 grs
Tiểu hồi hương 15 grs
-Lộc nhung, nhục quế, bá kích thiên, nhục thung dung, tiêu hồi hương, mẫu lệ: Bổ thận dương.
-Ngũ vị tử: Bổ tỳ vị.
Cách dùng:
Tán bột, luyện mật, làm viên, mỗi viên nặng 9 grs, ngày uống hai lần, sáng và tối, mỗi lần một viên, chiêu với rượu hâm nóng, vào lúc bụng chống. Cần uống lâu dài mới có kết quả.