Post by cuong on Nov 14, 2015 21:31:44 GMT
Chóng Mặt
link
Bác Sĩ Ðặng Trần Hào
Gan là một trong những tạng có nhiệm vụ thanh lọc rất quan trọng để bảo vệ sức khỏe của con người. Nhiệm vụ chính của gan là tẩy độc. Gan sẽ trung hòa tất cả những độc tố trong máu và di chuyển chúng xuống thận. Thận, ruột non và ruột già thanh lọc một lần nữa. Thanh đi ngược lên phế trở lại, còn trọc thì tống ra ngoài theo đường tiểu tiện và đại tiện. Gan còn chế biến tất cả những đồ ăn chúng ta ăn vào và chuyển hóa thành những dưỡng chất cần yếu để cơ thể chúng ta sẵn sàng hấp thụ.
Theo nghiên cứu của Bác Sĩ Bernad MD cho biết những chất mỡ và cholesterol sau khi gan thanh lọc chuyển xuống thận và ruột để tiếp tục thanh lọc nữa, nhưng muốn thanh tẩy những chất này cần phải có chất sơ. Có một số người không ăn rau trái và các hạt, nên không có chất sơ để chuyển những cholesterol, mỡ và tế bào ung thư ra ngoài, rồi chúng lại đi ngược về gan và cứ thế làm thành một vòng lẩn quẩn và càng ngày chất độc càng tích lũy càng nhiều mà gây ra ung bướu.
Thường người ta không để ý đến lá gan nhiều, bởi vì lá gan không trực tiếp nối với dây thần kinh. Vào lúc mà chúng ta cảm thấy có điều gì không ổn định với tạng này, thì hầu như lúc đó gan đã bị hủy hoại tới 75%. Lúc sự hư hoại đã xuyên qua lớp ngoài của lá gan và chạm tới những dây thần kinh, thì cảm giác đau đớn mới nhận được. Ðó là những triệu chứng báo động như” viêm gan, xơ gan và ung thư gan.
Chóng mặt do gan phong
Chóng mặt do gan phong gây ra thường ù tai, hay giận dữ, thường dễ bực tức, nhức đầu một bên, đôi khi buồn mửa, hay đắng, khô miệng và cổ họng, tê tứ chi. Lưỡi đỏ, rêu lưỡi mỏng. Mạch huyền.
Trong trường hợp này là nội phong, chứ không phải phong từ bên ngoài tấn công vào tạng gan. Khi gan phong nổi động đi nghịch lên thành chóng mặt, nhức đầu.
Chủ trị: Bình gan, giải nhiệt, vì gan khí uất kết gây ra nhiệt, nóng nẩy đưa tới đắng miệng và khô. Khí không thông cản huyết đưa ra ngoài bì da mà gây ra tê tứ chi. Dùng bài:
Trấn An Tức Phong
Ngưu tất 12 grs
Ðại giả thạch 15grs
Long cốt 18grs
Mẫu lệ 12grs
Qui bản 12grs
Bạch thược 12grs
Huyền sâm 9grs
Thiên môn đông 9grs
Xuyên luyện tử 6grs
Mạch nha 12grs
Nhân trần 9grs
Cam thảo 3grs
- Xuyên luyện tử, nhân trần: Xơ gan, giáng hỏa,
- Long cốt, mẫu lệ, đại giả thạch, qui bản: Trấn kinh, tiềm dương.
- Bạch thược, huyền sâm, thiên môn đông: Bổ âm, sinh tân dịch.
- Mạch nha: Bổ tì, tiêu tích.
- Ngưu tất dẫn huyết xuống chân.
- Cam thảo điều hòa các vị thuốc.
Chóng mặt do gan dương hữu dư
Chóng mặt thấy nhà cửa quay cuồng, ù tai, miệng đắng. Lưỡi đỏ và mịn, rêu vàng khô. Mạch sác và huyền.
Trong trường gan dương thượng nghịch này có thể gây ra nội phong. Muốn chữa trường hợp này phải bình gan và trừ phong tà.
Bài thuốc
Sài hồ 9 grs
Bạch thược 6 grs
Thanh bì 6 grs
Xuyên khung 4 grs
Hương phụ 6 grs
Cam thảo 3 grs
Câu đằng 9 grs
Thạch quyết minh 9 grs
Linh dương giác 9 grs
Ðịa long 6 grs
- Sài hồ, bạch thược, xuyên khung: Bình gan, trị nhức đầu.
- Thanh bì, hương phụ, cảm thảo: Tản khí trung tiêu, kiện toàn tiêu hóa.
- Câu đằng, địa long: Trị nhức đầu, chóng mặt.
- Linh dương giác, thạch quyết minh: Thanh nhiệt, giải phong.
Chóng mặt do thiếu máu
Nguồn gốc của máu do sự chuyển hóa của thức ăn. Sau khi bao tử nhận và tiêu hóa đồ ăn, tỳ (lá lách) phân tích và biến hóa thành chất bổ tinh khiết. Rồi tỳ khí chuyển hóa những chất này lên phổi. Trong khi chuyển hóa lên trên, cốc khí bắt đầu chuyển những chất cần thiết thành máu. Sự chuyển hóa hoàn hảo khi chất bổ tinh khiết tới phổi, nơi đây đồ ăn đã chuyển hóa phối hợp với thanh khí từ bên ngoài vào và cuối cùng tạo thành máu. Và máu được phân phối đi toàn cơ thể là nhờ vào tâm khí phối hợp với bể khí ở ngực.
Vậy nguyên nhân gây ra thiếu máu thường là do sự yếu kém của tỳ vị là hai tạng phủ chính trong việc kiện toàn tiêu hóa.
Khi bị thiếu máu gây ra chóng mặt vì máu không đủ để tim điều hòa, tim phải đập nhanh hơn, làm việc dễ mệt mỏi, lên cầu thang vài bậc đã muốn chóng mặt và thở hổn hển.
Ðau vùng thượng vị và hạ vị liên miên, ê ẩm vùng thượng vị, đau có khi lan rộng ra cả hai bên bụng dưới, mùa Ðông đau nhiều hơn mùa Hè, thường đau vào lúc đói, chườm ấm dễ chịu, thích ăn đồ nóng, ăn đồ lạnh vào thì dạ dầy khó chịu, thường đầy bụng, đại tiện phân nhão hoặc lỏng bất thường, ợ hơi, chậm tiêu, biếng ăn, bụng trướng, miệng nhạt, người mệt mỏi, chân tay đôi khi bất lực, sợ lạnh. Khi bệnh nhân nói tiếng thường nhỏ yếu, hụt hơi, sắc mặt vàng nhợt. Mạch trầm trì, vô lực. Rêu lưỡi mỏng, trắng lợt.
Phương pháp chữa: Kiện tỳ, hòa vị, nếu tỳ hư hàn thì ôn trung, kiện tỳ.
Hương Sa Lục Quân Tử Thang
Sâm hoa kỳ 12 grs
Bạch truật 9 grs
Phục linh 9 grs
Cam thảo 6 grs
Bán hạ chế 9 grs
Mộc hương 6 grs
Sinh khương 3 lát
Sa nhân 6 grs
Trần bì 6 grs
Ðại táo 3 trái
- Nhân sâm: Bổ tỳ và bao tử.
- Bạch truật: Tiêu thấp trong bao tử.
- Phục linh: Thông thủy tích trong bao tử.
- Cam thảo: Phối hợp và điều động các vị thuốc.
- Sa nhân, mộc hương, trần bì, sinh khương: Bổ tỳ vị khí, kiện toàn tiêu hóa, giúp ăn ngon.
- Bán hạ: Chữa nôn mửa do tỳ vị hư hàn gây ra.